Tiêu điểm
Kinh tế Việt Nam:
tạo đà bứt phá
Bài: Ths. Vũ Thu Hà
Trao đổi cùng Người Dẫn đầu, GS Nguyễn Đức Khương, Giám đốc Nguồn lực và Nghiên cứu tại Trường IPAG Business School (Paris), Chủ tịch AVSE Global (Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu) khẳng định, Việt Nam đang có đà phục hồi và phát triển tốt.
Tiêu điểm
Thử thách
cho ta thêm bản lĩnh
Bài: Ths. Vũ Thu Hà
Nói về công tác điều hành chính sách tiền tệ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng cho biết: Áp lực lên thị trường tiền tệ, ngoại hối không chỉ Việt Nam mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt. Khi chúng ta hội nhập sâu rộng, những diễn biến phức tạp của thế giới đến kinh tế, tiền tệ trong nước là không tránh khỏi. Do đó, chúng ta phải có tâm thế chủ động để ứng phó với những biến động đó...
Kinh tế Việt Nam tạo đà bứt phá
Kinh tế Việt Nam tạo đà bứt phá
Thử thách sẽ cho ta thêm bản lĩnh

Thành viên trẻ nhất Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cũng cho biết, hiện tại, Việt Nam có thêm 4 đòn bẩy để có thể thúc đẩy kinh tế bứt phá. Đó là đòn bẩy chính sách tiền tệ và tài khóa, đòn bẩy về đầu tư công, đòn bẩy xuất khẩu và cuối cùng là sự phục hồi của các ngành dịch vụ.

Ông có thể nói rõ hơn về những yếu tố hỗ trợ tích cực cho quá trình phục hồi và tăng trưởng kinh tế của nước ta trong 10 tháng qua và thời gian còn lại của năm 2022?

Ngay từ đầu năm 2022, các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới đã có những đánh giá tích cực về khả năng phục hồi của kinh tế Việt Nam. GDP 9 tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong 12 năm qua.

Bất chấp những bất ổn của thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn hồi phục mạnh mẽ. Đà phục hồi được duy trì là điểm nhấn toát lên từ các số liệu kinh tế khi các số liệu tháng 10 đóng góp đáng kể vào mức tăng đó. Trước tiên, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP 10 tháng ước tăng 9% so với cùng kỳ, mà trong đó ngành chế biến chế tạo vẫn có mức tăng vượt trội. Lực cầu cũng cải thiện rõ nét khi mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng ước đạt hơn 4.643,6 nghìn tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ.

Dòng vốn đầu tư tiếp tục khởi sắc, trong đó, vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 10 ước đạt 53,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,2% so với cùng kỳ. Còn vốn đầu tư nước ngoài, dù lượng vốn đăng ký 10 tháng có giảm nhẹ hơn 5%, nhưng lượng vốn thực hiện tăng tới 15,2%, đạt 17,45 tỷ USD. Đây cũng là con số cao nhất cùng kỳ 5 năm qua. Đó là những dữ liệu cho thấy nội lực của nền kinh tế.

GDP 9 tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong 12 năm qua.

Đà phục hồi và phát triển sẽ tiếp tục tốt nếu chúng ta tiếp tục đảm bảo được các yếu tố thành công nói trên. Ngoài ra, có 4 đòn bẩy khác có thể thực hiện.

Thứ nhất là đòn bẩy chính sách tiền tệ và tài khoá. So với rất nhiều nước đã phải dùng nhiều biện pháp bất kể chi phí để cứu trợ xã hội và giải cứu kinh tế để ứng phó với dịch bệnh và giờ đã hết dư địa thì Việt Nam vẫn còn không gian và sự chủ động chính sách. Do lạm phát vẫn được kiểm soát ở dưới 4% nên ở giai đoạn phục hồi, có thể tăng dòng tín dụng đến các lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu chủ đạo của nền kinh tế. Những hỗ trợ về thuế nên hướng đến khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu phát triển (R&D), hỗ trợ chuyển đổi số, và đổi mới mô hình kinh doanh, kỹ năng quản lý.

Tiếp đến là triển khai giải ngân các đầu tư công, trong đó đặc biệt là rà soát, giải quyết những vướng mắc cho các chương trình tồn đọng. Ưu tiên hướng đến các hạ tầng giao thông trọng điểm, hạ tầng logistics và hạ tầng số hóa. Quá trình thực hiện rất cần chú ý đến điều kiện cho liên kết vùng miền, liên kết chuỗi giá trị.

Khi đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia thì việc tăng xuất khẩu các mặt hàng nông, thủy hải sản và nguyên vật liệu cũng là một đòn bẩy quan trọng. Sự kéo dài của xung đột Nga-Ukraine đang đưa thế giới vào giai đoạn khó khăn về lương thực, thực phẩm.

Cuối cùng, cơ chế kinh tế mở và năng động cho phép Việt Nam khôi phục khu vực dịch vụ rất nhanh. Đơn cử các dịch vụ ăn uống, du lịch nội địa của Việt Nam đã tăng mạnh. Nếu có thể tìm thấy cơ chế nhuần nhuyễn khai thác thị trường du lịch thế giới sẽ tạo được đột phá.

Ví dụ, hiện tại giá xăng dầu đang ở mức cao, các chuyến bay quốc tế đến Việt Nam chỉ ở mức cầm chừng. Nếu các hãng hàng không quốc tế cùng các công ty du lịch nghiên cứu phương án chia sẻ chi phí, hài hòa lợi ích, có thể làm bùng nổ khách quốc tế tại Việt Nam. Chính sách hỗ trợ đặc biệt của Chính phủ cho mảng dịch vụ quốc tế này cũng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ phục hồi

Lợi thế, tích cực bao giờ cũng đi kèm với rủi ro, trở ngại. Theo ông, những rủi ro, trở ngại nào có thể đe dọa quá trình phục hồi GDP?

Khi cơ hội và thách thức đan xen thì lựa chọn tác chiến hữu hiệu trong mọi trường hợp vẫn là tối ưu hóa các lợi thế và tìm cách giảm thiểu rủi ro.

Trở ngại, rủi ro lớn nhất từ nay đến cuối năm là môi trường kinh doanh quốc tế phức tạp và biến động không ngừng, gắn chặt với những thay đổi từ các yếu tố địa chính trị, các căng thẳng đối đầu cục bộ ở nhiều khu vực, tình hình kinh tế toàn cầu. Yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu và chi phí sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam. Giá năng lượng nói chung và xăng dầu nói riêng còn tiếp tục xu hướng tăng, đưa đến nguy cơ đẩy chi phí sản xuất và mặt bằng giá cả lên cao.

Hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc và Mỹ đều tiềm ẩn những rủi ro. Xu hướng tiếp tục kiểm soát chặt COVID-19 của Trung Quốc, làn sóng tăng lây nhiễm mới ở nhiều quốc gia khác, có thể làm cho xuất khẩu vào nước này có thể bị hạn chế bất cứ lúc nào. Năng lực sản xuất và quy mô xuất khẩu của nước ta cũng có thể bị hạn chế khi bị phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập từ Trung Quốc.

Trong khi đó, Mỹ đối diện với rất nhiều khó khăn, lạm phát cao, thất nghiệp gia tăng, và nguy cơ suy thoái cận kề khi Cục Dự trữ Liên bang (Fed) buộc phải nâng lãi suất cơ bản cao với mức tăng cao nhất kể từ 1994 để ứng phó với lạm phát. Nhiều chính sách quan trọng cũng đang được Mỹ xem xét lại để kích hoạt “bộ ổn định tự động” (hỗ trợ thất nghiệp, giảm thuế, chi tiêu công), trong đó có cán cân thương mại với các nước. Thêm vào đó là nguy cơ suy giảm nhu cầu từ thị trường Liên minh châu Âu (EU) do tác động của xung đột Nga-Ukraine (lạm phát cao, suy thoái, thiếu hụt năng lượng).

Trong nước, những rào cản có thể đưa đến hiệu quả thấp, hành động chưa đủ nhanh, liên quan đến quyết tâm tự lực vươn lên, các nút thắt về đầu tư, năng lực sản xuất, vấn đề cơ chế, hay chất lượng của lực lượng lao động.

Ở trên ông đã nói đến nhiều rủi ro khách quan bên ngoài, còn nội tại nền kinh tế nước ta thì sao, thưa ông?

Đánh giá khách quan thì ở thời điểm hiện tại, Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển. Vị trí địa chính trị, uy tín quốc tế đang cho phép chúng ta tận dụng được nhiều cơ hội từ các đối tác chiến lược. Tôi đang nói đến khả năng làm việc, hợp tác thương mại với các cực phát triển lớn như Trung Quốc, Mỹ và EU. Hiện nay, rất ít quốc gia có được lợi thế này. Chỉ riêng việc tiếp tục thúc đẩy hiệu quả mảng dịch vụ và xuất khẩu cũng có thể tạo ra tăng trưởng cao.

Tuy nhiên, như vậy chưa đủ để có tăng trưởng cao trong dài hạn, bền vững và có vị thế vững chắc trên bản đồ kinh tế thế giới. Ở giai đoạn phát triển của Việt Nam, điều chúng ta cần là phát triển đột phá. Để đột phá thì cần nhất là tinh thần quyết tâm, vượt lên chính mình, khát vọng tự làm chủ được kiến thức và những công nghệ mới. Tiếp đến là đầu tư vào những nền tảng cho tương lai như hạ tầng kết cấu, khoa học công nghệ và trình độ chuyên môn cho người lao động.

Chúng ta cũng cần có một nội hàm kinh tế mạnh. Đây là thời điểm vàng để có những điều chỉnh quan trọng, định hướng và tái cơ cấu nền kinh tế. Từ đó tăng nội lực, sẵn sàng hấp thụ những tác động tích cực từ bên ngoài. Tập trung vào những ngành nghề cần hàm lượng tri thức cao, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, đi sâu vào chuỗi giá trị quốc tế, thậm chí dẫn dắt trong một số ngành như kinh tế số, công nghệ số là điều tiên quyết để bứt phá.

Trong đổi mới sáng tạo thì nên ưu tiên những đổi mới đưa đến gia tăng hiệu quả vận hành của bộ máy tổ chức, hệ thống thông tin, kết nối và những đổi mới giải quyết các bài toán cụ thể của tăng trưởng, phát triển bền vững (thương mại điện tử, tài chính toàn diện, ngân hàng số, chống biến đổi khí hậu…).

Giá năng lượng nói chung và xăng dầu nói riêng còn tiếp tục xu hướng tăng, đưa đến nguy cơ đẩy chi phí sản xuất và mặt bằng giá cả lên cao.

Được biết, ông đang sinh sống và làm việc tại Pháp. Theo ông, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam hiện tại cần học hỏi gì từ nước Pháp?

Nước Pháp cũng có rất nhiều khó khăn, nhiều động lực tăng trưởng đã tới hạn, chưa kể đến những ràng buộc khi theo đuổi chính sách đoàn kết trong EU. Do đã ở mức phát triển ổn định, bất cứ cải cách đột phá nào cũng khó diễn ra nhanh. Họ cũng đang tiếp tục thúc đẩy phục hồi, cải cách và tìm các động lực phát triển mới.

Bài học sâu sắc mà tôi tâm đắc nhất là quá trình phục hồi luôn đặt trên những nguyên tắc cơ bản, cần tuân thủ, trong những lĩnh vực tác động lên nhiều người dân. Ví dụ lĩnh vực y tế dường như được đưa riêng ra khỏi các lợi ích kinh tế, rất minh bạch, với vai trò rõ ràng của nhà nước và các thành phần kinh tế khác nhau. Những hiện tượng giá cả phi mã, lợi dụng dịch bệnh để tăng giá cả của thuốc, hay thiết bị y tế… rất khó xảy ra.

Hay đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều năng lượng, chính phủ đưa ra những hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị suy giảm lợi nhuận biên (30% so với năm trước đó), các doanh nghiệp có lợi nhuận biên âm và các doanh nghiệp nằm trong lĩnh vực trực tiếp phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế cao và suy giảm lợi nhuận biên. Ngay từ đầu năm, chính phủ Pháp cũng đã ban hành một chỉ thị giới hạn tăng giá khí đốt và giá điện ở mức 4%.

Bài học tiếp theo là “đầu tư cho tương lai” mỗi khi phải đối mặt với khủng khoảng. Chính phủ Pháp cam kết hỗ trợ mạnh mẽ cho đổi mới sáng tạo, công nghệ mới, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển (R&D) và tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng số lượng start-up, cũng như số kỳ lân công nghệ trong những năm tới.

Ông dự báo thế nào về tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm nay?

Dự báo tốc độ tăng trưởng hằng năm phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố đầu vào. Môi trường kinh tế luôn thay đổi. Ngay cả Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế cũng phải cập nhật, tính toán lại các dự báo 3 tháng 1 lần.

Tôi luôn lạc quan về sự phát triển của Việt Nam, nơi mà tôi thấy sự năng động, cởi mở, tinh thần vươn lên, và còn rất nhiều dư địa phát triển. Với những điều kiện hiện tại, tăng trưởng trong khoảng 6-7,5% là khả thi, chưa phải đánh đổi nhiều mà vẫn tiếp tục tốt được các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Sự nỗ lực phải đến từ mọi phía.

Xin cảm ơn ông!

Lãi suất, tỷ giá tăng là tất yếu

Trong bối cảnh thế giới liên tục có nhiều biến động địa, chính trị lẫn kinh tế, NHNN đã kịp thời có những quyết sách quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) như, điều chỉnh nới biên độ tỷ giá từ +/-3% lên +/-5% kể từ ngày 17/10; hai lần tăng lãi suất điều hành vào ngày 23/9 và ngày 25/10, kiên định trong kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức 14%...

Phản ứng chính sách trên của NHNN được giới chuyên môn đánh giá tích cực. NHNN đã, đang thể hiện sự linh hoạt, bám sát xu thế chung của NHTW các nước trên thế giới cũng như diễn biến trong nước. Bởi, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã 5 lần điều chỉnh tăng lãi suất mục tiêu lên mức 3-3,25% và dự báo còn tiếp tục tăng trong các tháng cuối năm 2022 và năm 2023. Bên cạnh đó, đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, tạo sức ép lên lạm phát. Tiền đồng mất giá mạnh so với USD, kéo theo gia tăng áp lực nhập khẩu lạm phát.

Tại thời điểm tháng 11/2022, mặt bằng lãi suất của các NHTM đã tăng 2-3% so với đầu năm; Giá USD ngân hàng đã tăng hơn 8,5% so với đầu năm, trên thị trường, giá USD đã có lúc vượt 25.000 đồng. NHNN đã phải can thiệp bằng cách bán ra USD. Nhưng Quỹ Dự trữ ngoại hối quốc gia không phải là vô tận; và xu hướng các đồng nội tệ, trong đó có VND, giảm giá so với USD có thể vẫn tiếp tục. Do đó, CSTT cần tiếp tục thể hiện sự linh hoạt trong điều chỉnh với liều lượng và thời điểm thích hợp. Một mặt, NHNN vẫn điều chỉnh biên độ tỷ giá, mặt khác (nếu cần thiết) vẫn phải tăng lãi suất ở mức độ thích hợp.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất hiện nay là gia tăng lòng tin của người dân, doanh nghiệp đối với điều hành chính sách để kỳ vọng lạm phát không phá vỡ những thành quả trong điều hành CSTT suốt thời gian qua. Thứ hai là quản lý hiệu quả mối liên hệ giữa thị trường chính thức và thị trường không chính thức thì việc nới biên độ tỷ giá mới có hiệu quả, tránh hiện tượng giá USD chợ đen tăng mạnh, tạo tâm lý bất ổn cho thị trường.

Tăng trưởng hay kiểm soát lạm phát?

Trong năm 2022, dưới sự đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN cũng như các bộ, ngành đã chủ động, linh hoạt đưa ra các giải pháp để ứng phó, góp phần đạt được ổn định kinh tế vĩ mô cũng như ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối như hiện nay. Đến thời điểm hiện tại, thị trường diễn biến ngày càng tích cực, tâm lý thị trường ổn định.

Tuy nhiên, áp lực điều hành đang đè nặng lên NHNN khi phải “cân bằng” giữa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế với kiểm soát lạm phát, giữ giá VND. Tính đến ngày 25/10, tín dụng đã tăng 11,5% so với cuối năm 2021; và tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái - là mức cao so với cùng kỳ nhiều năm trước đây. Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đã, đang tăng nhanh do thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán đều đang lao dốc.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều bất định như hiện nay mà gánh nặng cung ứng vốn cho nên kinh tế vẫn dồn lên vai ngân hàng khiến rủi ro hệ thống tài chính tăng. Do đó, NHNN càng phải thận trọng với cung tiền và kiên định trong quản lý, điều hành tăng trưởng tín dụng; nhất là phải tăng cường kiểm tra, giám sát để vốn tín dụng thực sự đi vào sản xuất kinh doanh.

Cho đến thời điểm này, các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đều tin tưởng tiềm năng tăng trưởng và triển vọng tích cực của Việt Nam trong trung và dài hạn. Nhưng rủi ro hiện nay rất lớn, đặc biệt rủi ro từ độ trễ chính sách, những tác động “vòng hai” của những yếu tố bên ngoài sẽ rất lớn với Việt Nam.

Lạm phát cao trên toàn cầu, đặc biệt là ở các nước phát triển, đẩy các nước này phải lựa chọn: Tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, hay khống chế lạm phát cao. Nhiều nước đã phải chọn thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát. Việc này sẽ tác động dây chuyền đến toàn bộ thị trường vốn, tiền tệ trên thế giới, đặc biệt với các nước đang phát triển. Hệ lụy dễ thấy ngay là lạm phát nhập khẩu tăng, trong khi đó, tỷ giá tiếp tục biến động rất lớn. Hàng loạt đồng nội tệ ở châu Á đã bị mất giá rất mạnh.

Đứng trước bối cảnh áp lực lạm phát, tỷ giá, lãi suất trên thế giới hiện nay, giới chuyên môn cho rằng, điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn có thể phải chấp nhận đánh đổi, ổn định lãi suất hay ổn định tỷ giá? Chọn thế nào thì cơ quan điều hành phải dựa vào đánh giá tác động và đặt lên bàn cân làm sao hài hòa các mục tiêu.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian tới, NHNN chủ động bám sát và nắm chắc tình hình để đưa ra những giải pháp, công cụ điều hành phù hợp với liều lượng cũng như thời điểm hợp lý. Phù hợp ở đây là phù hợp với xu thế thế giới nhưng cũng phải phù hợp với thực tiễn, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam.

CSTT cũng sẽ được điều hành trong mối quan hệ phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong tổng thể các giải pháp điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, để kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế cũng như đảm bảo an sinh xã hội...

Sức ép lạm phát lớn, dư địa CSTT không còn nhiều nên thời gian tới, chính sách tài khóa sẽ đóng vai trò quan trọng. Mà nói đến chính sách tài khóa thì mấu chốt vẫn là giải ngân vốn đầu tư công, vì đây là nguồn cung vốn trực tiếp cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Đến nay, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của hầu hết dự án đã được cấp có thẩm quyền giao cho các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương; việc công bố chỉ số giá xây dựng tại các địa phương đã được ban hành cơ bản đầy đủ, khá kịp thời.

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, kết quả giải ngân vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước ước đến ngày 31/10/2022 cao hơn cùng kỳ năm 2021 là 40.387 tỷ đồng (tăng 16%); tuy nhiên, mới đạt 51,34% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 là 55,8%). Điều này là do nguồn vốn đầu tư công năm 2022 điều chỉnh tập trung trọng tâm, trọng điểm và huy động được từ nhiều nguồn khác nhau nên tăng hơn so với năm 2021 khoảng 120 nghìn tỷ đồng.

Thời gian tới, NHNN chủ động bám sát và nắm chắc tình hình để đưa ra những giải pháp, công cụ điều hành phù hợp với liều lượng cũng như thời điểm hợp lý. Phù hợp ở đây là phù hợp với xu thế thế giới nhưng cũng phải phù hợp với thực tiễn, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam.

Trước tình hình này, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu các ngành, địa phương cần tập trung, phấn đấu cao nhất để hoàn thành các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, trong đó có giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước kế hoạch năm 2022 đạt 95-100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.

Sử dụng CSTT hay chính sách tài khóa nhiều hơn thì điều quan trọng đối với NHNN cũng như các bộ, ngành là cần phải tăng cường công tác dự báo, phân tích tình hình, liên tục cập nhật những diễn biến mới để chủ động đưa ra các giải pháp điều hành. Trong điều hành phải phối hợp tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô chứ không chỉ riêng chính sách tiền tệ.

Tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023 với tỷ lệ tán thành cao (93,37%). Nghị quyết kêu gọi toàn dân, các cơ quan, địa phương đoàn kết, phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, thích ứng linh hoạt, hiệu quả với bối cảnh, tình hình thế giới, trong nước để thực hiện thành công kế hoạch và các mục tiêu đặt ra.

Nghị quyết nhấn mạnh cần theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế, giá cả, lạm phát, thị trường thế giới, khu vực, trong nước; kịp thời nhận biết rủi ro để có đối sách phù hợp, điều hành đồng bộ, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với CSTT và các chính sách vĩ mô khác để kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định nền tảng vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế hợp lý, hiệu quả.

Với CSTT, Nghị quyết yêu cầu tăng cường năng lực thích ứng, chống chịu, bảo đảm sự ổn định của hệ thống tài chính, ngân hàng trong mọi tình huống; kiểm soát chặt chẽ lạm phát, điều hành chủ động, linh hoạt công cụ lãi suất, tỷ giá, phù hợp và sát thực với diễn biến tình hình kinh tế-xã hội. Đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng; kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) tiết giảm chi phí, ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, triển khai quyết liệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 và phương án xử lý các TCTD yếu kém, các dự án, công trình chậm tiến độ, đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý đối với các TCTD, tăng cường minh bạch, khắc phục triệt để hiệu quả tình trạng “sở hữu chéo”, cho vay không tài sản bảo đảm không đúng quy định, cho vay các doanh nghiệp “nội bộ”, “sân sau”...

Các chỉ tiêu chủ yếu trong Kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2023:
1
Tốc độ tăng GDP khoảng 6,5%.
2
GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD.
3
Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,4-25,8%.
4
Tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4,5%.
5
Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5,0-6,0%.
6
Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 26,2%.
7
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27,5%.
8
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.
9
Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm khoảng 1-1,5%.
10
Số bác sĩ trên 10.000 dân đạt khoảng 12 bác sĩ.
11
Số giường bệnh trên 10.000 dân đạt khoảng 32 giường bệnh.
12
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,2% dân số.
13
Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 78%.
14
Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 95%.
15
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 92%.