quyết định về nhân sự lãnh đạo cao
chống dịch COVID - 19
Vietcombank đã vinh dự được chào đón sự hiện diện của đ/c Nguyễn Thị Hồng - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam; đ/c Nguyễn Long Hải - Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương (DNTW); lãnh đạo các Vụ thuộc Ban Nội chính Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương; các Ban thuộc
KYC dựa trên video để thiết lập danh tính của khách hàng.Về phía Vietcombank, các đ/c Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Ủy viên UBKT Đảng ủy, thành viên HĐQT, thành viên Ban Điều hành, Trưởng ban Kiểm soát, thành viên Ban Kiểm soát, Giám đốc Khối, Kế toán trưởng, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn thanh niên, Lãnh đạo các Phòng/Ban/Trung tâm/Đơn vị trực thuộc TSC, Trưởng các Văn phòng Đại diện trong và ngoài nước và các đ/c trong Cấp ủy, Ban Giám đốc các Chi nhánh/Công ty trực thuộc đã tham dự buổi lễ.
Tại buổi Lễ, đ/c Hồ Xuân Trường - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Đảng ủy Khối DNTW đã công bố Quyết định số 368-QĐ/ĐUK ngày 30/8/2021 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối DNTW chuẩn y đ/c Phạm Quang Dũng - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối DNTW, Phó Bí thư phụ trách Đảng bộ, Chủ tịch HĐQT Vietcombank giữ chức Bí thư Đảng ủy Vietcombank nhiệm kỳ 2020-2025.
Trên cơ sở phê duyệt của NHNN, Đảng ủy Khối DNTW, HĐQT Viecombank đã bầu đ/c Phạm Quang Dũng – thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Vietcombank giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT Vietcombank cho thời gian còn lại của nhiệm kỳ 2018-2023 thay thế đ/c Nghiêm Xuân Thành – Nguyên ủy viên BTV Đảng ủy Khối, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐQT đã được bầu là Ủy viên BCH TW Đảng và được Bộ Chính trị điều động, phân công giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang từ đầu tháng 7/2021. Tại buổi lễ, đại diện HĐQT đã công bố Nghị quyết số 668/NQ-VCB-HĐQT ngày 30/8/2021 về nội dung này.
Phát biểu nhận nhiệm vụ, thay mặt cho các đ/c được giao giữ cương vị mới, đ/c Phạm Quang Dũng đã bày tỏ niềm vinh dự lớn lao, nhận thức sâu sắc về trách nhiệm khi được giao nắm giữ những vị trí quan trọng nhất tại Vietcombank; cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của các đ/c lãnh đạo Đảng ủy Khối, Ban cán sự Đảng NHNN, các cơ quan Đảng và quản lí cấp trên cũng như các đ/c lãnh đạo tiền nhiệm, thành viên Ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ nhân viên Vietcombank trong toàn hệ thống. Nhắc lại truyền thống gần 60 năm đầy vẻ vang của Vietcombank, đ/c Phạm Quang Dũng khẳng định các thế hệ lãnh đạo và người lao động Vietcombank đã có những đóng góp quan trọng cho đất nước, cộng đồng và doanh nghiệp; đã hun đúc nên văn hóa Vietcombank với những đặc trưng riêng có “Tín - Chuẩn - Mới - Bền - Nhân” ; vun đắp nên bản sắc thương hiệu Vietcombank ngày càng lớn mạnh trong nước và trên thế giới mà đội ngũ kế cận hôm nay phải tiếp tục gìn giữ và phát huy. Đồng chí Chủ tịch HĐQT Vietcombank cam kết sẽ nỗ lực hết mình, tiếp tục phấn đấu cùng toàn hệ thống Vietcombank hiện thực hóa những mục tiêu chiến lược cho giai đoạn mới mà trước mắt là thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng chống dịch COVID-19, chung tay chia sẻ cùng khách hàng và cộng đồng; quyết liệt triển khai chương trình chuyển đổi số toàn diện trong kế hoạch tổng thể phát triển Vietcombank đến năm 2025, tầm nhìn 2030, tạo nền tảng để Vietcombank giữ vững vị thế ngân hàng số một tại Việt Nam và sánh vai với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, đóng góp cho sự phát triển của đất nước, xứng đáng với niềm tin mà hàng triệu khách hàng và cả xã hội đã dành cho Vietcombank.
Đ/c Hồng Quang - thành viên HĐQT kiêm Giám đốc Khối Nhân sự Vietcombank cũng đã công bố Quyết định số 1668/QĐ-VCB-TCNS của HĐQT Vietcombank giao nhiệm vụ phụ trách Ban điều hành Vietcombank đối với ông Nguyễn Thanh Tùng – Phó Tổng Giám đốc Vietcombank.
Phát biểu tại buổi lễ, Thống đốc NHNN và Bí thư Đảng ủy Khối DNTW đã chúc mừng hệ thống Vietcombank và cá nhân đ/c Phạm Quang Dũng, đ/c Nguyễn Thanh Tùng đã nhận được sự tín nhiệm rất cao, được giao các vị trí lãnh đạo caonhất tại Vietcombank. Lãnh đạo ngành Ngân hàng, lãnh đạo Đảng ủy Khối mong muốn và tin tưởng đ/c Phạm Quang Dũng và đ/c Nguyễn Thanh Tùng sẽ phát huy truyền thống và những kết quả đã đạt được của Vietcombank, tiếp tục là hạt nhân đoàn kết đưa Đảng bộ, hệ thống Vietcombank phát triển; đóng góp tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng, trong bối cảnh đang nỗ lực cùng cả nước phòng chống đại dịch COVID-19, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và đẩy mạnh chuyển đổi số; khẳng định vị thế của Vietcombank là ngân hàng luôn tiên phong trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Ngành, có vai trò dẫn dắt và đang từng bước vươn tầm khu vực.
Vietcombank là một ngân hàng có truyền thống lâu đời, uy tín bậc nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam với những đóng góp quan trọng cho đất nước. Trong suốt thời gian hình thành và phát triển, Vietcombank ngày càng khẳng định vững chắc vị thế ngân hàng số 1 tại Việt Nam về chất lượng, an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Giá trị vốn hóa thị trường của Vietcombank luôn nằm trong nhóm đầu các doanh nghiệp niêm yết (hiện khoảng 16,5 tỷ USD). Vietcombank luôn đứng đầu ngành Ngân hàng về nộp ngân sách Nhà nước, là ngân hàng chuyển đổi số tiêu biểu trong năm 2020, được ghi danh trong danh sách 30 tập đoàn tài chính mạnh nhất châu Á – Thái Bình Dương và là ngân hàng Việt Nam duy nhất có mặt trong danh sách 1.000 công ty niêm yết lớn nhất toàn cầu.
Ông Phạm Quang Dũng, sinh ngày 18/4/1973, có bằng Thạc sỹ Tài chính Ngân hàng tại Trường Đại học Birmingham (Vương quốc Anh), kinh nghiệm 27 năm công tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Ông Phạm Quang Dũng bắt đầu sự nghiệp tại Vietcombank từ tháng 8/1994, trải qua nhiều vị trí công tác tại Phòng Đầu tư và Bảo lãnh; Phòng quan hệ Quốc tế; Công ty Cho thuê tài chính và kinh qua nhiều chức vụ quản lý quan trọng tại Vietcombank như: Phó Chánh Văn phòng; Phó Giám đốc Công ty Tài chính Việt Nam tại Hồng Kông; Trưởng phòng Quan hệ Ngân hàng đại lý; Phó Tổng Giám đốc; Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc.
Trước khi được bầu là Chủ tịch HĐQT Vietcombank, ông Phạm Quang Dũng là Thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Vietcombank từ 11/2014 đến nay
Những quyết sách đồng bộ
Năm 2021, kinh tế Việt Nam và thế giới đang tiếp tục chịu tác động nghiêm trọng bởi dịchCOVID-19. Nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nước gặp khó khăn. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ, nhất là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, hàng không, vận tải...
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi làn sóng dịch thứ tư bùng phát ở các khu công nghiệp trêncả nước, rất nhiều nhà máy trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp logistics và vận tải hiện đang đối diện nguy cơ đứt gãy, gián đoạn đoạn hàng loạt các chuỗi cung ứng hàng hóa và liên kết sản xuấttrong nước, kéo theo tăng áp lực bảo đảm an sinhxã hội.
Trong bối cảnh dịch vẫn hoành hành và diễn biến phức tạp, khó lường, cộng đồng doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam ghi nhận, đánh giá cao nhiều quyết sách từ Quốc hội và Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời trong thời gian gần đây, tiêu biểu như: Cắt giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho các doanh nghiệp chủ yếu thuộc quy mô vừa và nhỏ, có doanh số dưới 200 tỷ đồng/năm; kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ 1/1/2021 tới năm 2025 (miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm); giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế TNDN, tiền thuê đất và các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng.
Đặc biệt, ngày 19/4/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2021/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang áp dụng việc giảm thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay trong năm 2021 hỗ trợ ngành hàng không; cho phép tính vào chi phí được trừ của doanh nghiệp, tổ chức các khoản chi ủng hộ, tài trợ cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19 khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cho năm 2020 và 2021; giảm mạnh các phí liên quan thành lập, công bố thông tin doanh nghiệp, thẩm định sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động.
Ngành ngân hàng tích cực vào cuộc
Với vai trò và chức năng của mình, thời gian qua, ngành ngân hàng đã có những hoạt động tích cực, đa dạng và hiệu quả triển khai các chỉ đạo của Thủ tướng, Chính phủ và đồng hành cùng doanh nghiệp:
Về tín dụng, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 tạo cơ sở pháp lý và hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ tại thời điểm trước dịch, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp tục vay mới để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Ngành cũng thường xuyên rà soát, đánh giá diễn biến và tác động của dịch bệnh đối với khả năng tăng trưởng tín dụng của hệ thống để xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng đối với từng TCTD, đáp ứng tốt các tỷ lệ bảo đảm an toàn, có khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh, phù hợp với định hướng điều hành của NHNN. Qua đó, ngành đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân, nhất là các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, tạo điều kiện tối đa cho khách hàng vay vốn tiếp tục được vay mới để khôi phục sản xuất, kinh doanh.
Đồng thời, ngành Ngân hàng đã và đang phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội để trả lương ngừng việc cho người lao động theo Quyết định số 32/2020/QĐ - TTg ngày 19/10/2020, Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ.
Về lãi suất, NHNN đã 3 lần liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô lớn với tổng mức giảm khoảng 1,5-2,0%/năm lãi suất điều hành để sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD.
Đồng thời, để hỗ trợ TCTD có điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, NHNN đã giảm 0,85%-1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn Việt Nam đồng đối với các lĩnh vực ưu tiên. NHNN chỉ đạo TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý, bảo đảm an toàn tài chính; tiết giảm chi phí hoạt động để tập trung nguồn lực giảm mạnh lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Thực hiện chỉ đạo của NHNN, các TCTD đã căn cứ thực tế ảnh hưởng của khách hàng và khả năng tài chính của mình triển khai kịp thời các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay đối với các dư nợ hiện hữu, triển khai nhiều chương trình cho vay lãi suất ưu đãi (phổ biến giảm 0,5-2,5% so với trước dịch) để hỗ trợ khách hàng.
Mới đây nhất, từ ngày 1/8/2021 đến hết 31/12/2021, Vietcombank giảm hàng loạt các loại phí dịch vụ trên toàn bộ các kênh: Quầy giao dịch, ATM, Ngân hàng số VCB Digibank, VCB_iB@nking và VCB Money cho các tất cả các đối tượng khách hàng.
Trong năm 2021, Vietcombank đã và sẽ giảm hàng trăm tỉ đồng tiền phí cho các khách hàng là các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trên khắp cả nước. Trước đó, nhằm tiếp tục hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, từ ngày 15/7 đến hết ngày 31/12/2021, Vietcombank đã thực hiện giảm lãi suất cho vay đối với tất cả khách hàng đợt thứ 8 và đây cũng là đợt giảm lãi suất lớn nhất kể từ năm 2020 khi dịch bệnh bùng phát với tổng mức lãi suất cắt giảm lên tới gần 1.800 tỉ đồng. Theo đó, tổng số tiền lãi Vietcombank hỗ trợ khách hàng trong 6 tháng cuối năm 2021 dự kiến lên tới 4.000 tỉ đồng và cả năm 2021 là 6.100 tỉ đồng.
Ngoài các đợt giảm lãi suất cho vay, Vietcombank còn thực hiện giảm phí, cơ cấu nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng, đồng thời triển khai nhiều chương trình lãi suất thấp đối với các khoản vay mới nhằm hỗ trợ khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn từ nay đến cuối năm.
Bên cạnh đó, kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát trong năm 2020 đến nay, Vietcombank đã cam kết và tài trợ lên đến gần 350 tỉ đồng để hỗ trợ các địa phương và ngành y tế trong công tác phòng, chống dịch.
Kịp thời, hiệu quả
Đặc biệt, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp những tháng gần đây, ngày 3/6/2021, NHNN ban hành văn bản hỏa tốc về việc triển khai các biện pháp tăng cường phòng, chống và tháo gỡ khó khăn do tác động của dịch COVID-19. Theo đó, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Giám đốc NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố chủ động xây dựng phương án, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng được an toàn, liên tục và thông suốt trong mọi tình huống;
Tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí cho vay mới, theo thẩm quyền và theo quy định hàng loạt Quyết định và Thông tư như: Thông tư 01/2020/TT-NHNN, Thông tư số 03/2021/TT-NHNN, Thông tư số 10/2015/TT NHNN, Thông tư số 25/2018/TT-NHNN, Thông tư 02/2013/TT-NHNN, Quyết định số 50/2010/QĐTTg, Quyết định số 08/2021/QĐ-TTg…; Thực hiện cắt giảm tối đa các loại chi phí nhằm tạo nguồn lực tài chính hỗ trợ khách hàng, người dân, doanh nghiệp. Từng TCTD căn cứ năng lực, khả năng tài chính của mình để tính toán thực hiện giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại thời hạn trả nợ và các biện pháp hỗ trợ khác; đồng thời công khai công bố mức lãi suất hỗ trợ, các biện pháp, chính sách hỗ trợ để người dân, doanh nghiệp được biết;
Hướng dẫn cụ thể và tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về quy trình, thủ tục, các dịch vụ trực tuyến, dịch vụ thanh toán của ngân hàng, triển khai các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ ngân hàng và khách hàng, đặc biệt là khách hàng ở khu vực có dịch, vùng cách ly y tế không trực tiếp đến ngân hàng giao dịch nhằm đảm bảo vừa phòng chống dịch, vừa đáp ứng dịch vụ ngân hàng trên địa bàn;
NHNN chi nhánh tại các tỉnh, thành phố đang thực hiện cách ly, phong tỏa phối hợp chính quyền địa phương chủ động có các giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo: Bộ phận đăng ký giao dịch bảo đảm của văn phòng đăng ký đất đai có giải pháp để tiếp nhận xử lý các hồ sơ đăng ký giao dịch, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng;…
Bên cạnh đó, hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng Chính phủ về việc sớm đưa vaccine phòng COVID-19 đến mọi người dân cũng như với mong muốn được chung tay cùng toàn xã hội, ngànhngân hàng đã đóng góp tích cực nguồn lực hàng trăm tỷ đồng. Từ năm 2020 đến nay, tập thể cán bộ công nhân viên chức ngành Ngân hàng đã dành khoảng 500 tỷ đồng, riêng 5 tháng đầu năm 2021 là khoảng 200 tỷ đồng hỗ trợ công tác phòng chống COVID-19, mua sinh phẩm chẩn đoán COVID-19, mua vaccine... 4 ngân hàng thương mại là Vietcombank, Vietinbank, BIDV và Agribank mỗi ngân hàng ủng hộ 25 tỷ đồng để mua vaccine.
Trước mắt, việc cơ cấu nợ, giãn thời hạn về trả nợ giúp cả ngân hàng và doanh nghiệp "dễ thở" hơn. Thống kê từ Báo cáo tài chính của 26 ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán, tính đến hết quý I/2021, có 11/26 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm so với cuối năm 2020.
Hiện có 6 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay dưới 1%, trong đó có ngân hàng đưa tỷ lệ nợ xấu xuống mức thấp kỷ lục; có ngân hàng đưa tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay thấp dưới 1% như Vietcombank (0,88%)… Điều này cho thấy các ngân hàng đang xử lý và kiểm soát nợ xấu khá tốt, dù nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu lại vẫn chưa thể hiện rõ ràng và tác động của làn sóng dịch thứ tư hiện tại có thể làm tăng áp lực nợ xấu và đòi hỏi các ngân hàng cần tiếp tục tích cực xử lý lượng nợ xấu tồn đọng; trích lập dự phòng rủi ro để có nguồn xử lý nợ xấu trong tương lai.
Dịch COVID-19 đã, đang và sẽ tiếp tục làm thay đổi thế giới đương đại, cả trong tư duy và phương thức quản lý, sản xuất, phân phối, tiêu dùng các nguồn lực và của cải xã hội, cả vĩ mô và vi mô, cả quản trị doanh nghiệp, cũng như quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp …
Những quyết sách của Nhà nước nói chung, NHNN và ngành ngân hàng nói riêng đã và đang giúp doanh nghiệp củng cố niềm tin và có động lực mạnh mẽ hơn nhằm khắc phục thiệt hại, vực dậy sản xuất kinh doanh, đồng hành cùng Chính phủ trong thực hiện mục tiêu kép “vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế”.
Để sáng tỏ vấn đề này, Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) đã công bố báo cáo đánh giá tiền điện tử, nêu rõ những đặc điểm duy nhất mà chỉ tìm thấy ở CBDC, tập trung vào vai trò (của CBDC) là phương tiện thanh toán, so sánh phương tiện này với tiền mặt và hệ thống thanh toán bán lẻ nhanh (FPS), phân công lao động trong lĩnh vực thanh toán, và những vấn đề liên quan khác.
Tiền trong kỷ nguyên số
Mối quan tâm của các NHTW về CBDC nổi lên vào thời điểm đáng lo ngại. Bao gồm, mối quan tâm ngày càng tăng về Bitcoin và những đồng tiền ảo khác - stablecoins, và sự tham gia ngày càng tăng của big tech vào dịch vụ thanh toán.
Cho đến nay, hầu hết các NHTW đều có chung nhận định, các đồng tiền ảo chỉ là tài sản đầu cơ. Trong nhiều trường hợp, chúng được sử dụng để hỗ trợ hoạt động rửa tiền và những tội phạm tài chính khác. Stablecoins là tập hợp con của tiền ảo, có mức giá neo với một đồng tiền pháp định (fiat) cụ thể, tiền ảo hay vàng. Stablecoins cố gắng nâng cao độ tin cậy dựa trên những đồng tiền thực tế, nhưng nếu có sự hỗ trợ của đồng tiền truyền thống (theo quy ước), thì nó cũng chỉ là phần phụ trong hệ thống tiền tệ truyền thống.
Xu hướng phát triển lớn nhất và đáng lo ngại nhất là sự tham gia của các big tech vào dịch vụ tài chính. Nhờ xâm nhập vào dịch vụ tài chính và dữ liệu của người sử dụng internet, big tech đã nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua hiệu ứng mạng lưới mạnh, ép buộc thị trường thanh toán phát triển theo hướng ngày càng tập trung, loại trừ đối thủ trong dịch vụ tài chính như đối với thương mại điện tử và truyền thông xã hội. Các động thái củng cố sức mạnh thị trường có thể tăng thêm chi phí dịch vụ thanh toán vốn đang ở mức cao.
Lo ngại ở đây là, khi xâm nhập vào thị trường thanh toán, big tech sẽ tiếp cận dữ liệu của người dùng từ các kênh kinh doanh điện tử liên quan, nhanh chóng chiếm ưu thế và đẩy mức phí tăng cao, một số trường hợp lên đến 4%. Yếu tố cơ bản dẫn đến chi phí cao triền miên trong thanh toán điện tử là thiếu vắng sự tiếp cận tổng hợp về dịch vụ thanh toán, số người tiếp cận thanh toán điện tử còn chiếm tỷ trọng thấp. Trước làn sóng thâu tóm thị trường, các cơ quan quản lý tại một số nước đang phải tăng cường điều chỉnh big tech.
CBDC là tài sản của cộng đồng
Trong lĩnh vực thanh toán, NHTW phục vụ lợi ích cộng đồng theo hướng đảm bảo tính an toàn, vẹn toàn, hiệu quả, dễ tiếp cận. Để theo đuổi những mục tiêu này, NHTW phải đáp ứng 4 vai trò chính: Đưa ra đơn vị tính toán trong hệ thống tiền tệ; cung cấp phương tiện đảm bảo thanh toán bán buôn cuối cùng; đảm bảo hệ thống thanh toán vận hành thông suốt; giám sát tính vẹn toàn của hệ thống thanh toán và duy trì môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Trong hệ thống tiền tệ, CBDC cần được xem xét theo những chức năng trên của NHTW. CBDC bán buôn được các định chế tài chính chuyên nghiệp sử dụng dựa trên mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong đó, NHTW là nền tảng cơ bản của hệ thống thanh toán, khi chỉ định các hoạt động đối mặt khách hàng cho các đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán (PSP).
NHTW cấp tài khoản cho các ngân hàng thương mại (NHTM) và những PSP khác, giao dịch thanh toán trong nước được xử lý trên bảng cân đối kế toán của NHTW. Mục tiêu của CBDC là dàn xếp giao dịch giữa các NHTM và giao dịch bán buôn liên quan, có thể bao gồm các tài sản số hay những khoản thanh toán qua biên giới.
Trái với CBDC bán buôn, CBDC bán lẻ có nhiều đổi mới vượt trội. CBDC bán lẻ sửa đổi hệ thống tiền tệ hai cấp nhằm chuẩn bị lượng CBDC cần thiết cho công chúng. CBDC bán lẻ gần giống với dạng thức điện tử của tiền mặt, nhưng không gây ra rủi ro tín dụng cho các thành viên tham gia hệ thống thanh toán.
CBDC bán lẻ có hai biến thể khác nhau: Thứ nhất là dạng thức giống tiền mặt, cho phép tiếp cận dựa trên mật khẩu điện tử (token) và ẩn danh trong thanh toán. Hình thức này có thể giúp người dùng cá nhân tiếp cận CBDC thông qua mật khẩu điện tử, mà không phải nhận dạng cá nhân. Dạng thức thứ hai được thiết lập dựa trên việc xác thực ID của người dùng (tiếp cận dựa trên tài khoản) và có thể lưu lại trong phần mềm nhận dạng điện tử.
Vấn đề cấp thiết đối với hệ thống thanh toán là tác động của CBDC bán lẻ đến việc quản trị dữ liệu, xu hướng cạnh tranh của PSP và những tổ chức khác trong lĩnh vực thanh toán. Liên quan đến vấn đề này, kinh nghiệm về phát triển FPS bán lẻ cho thấy, các NHTW có thể cải thiện chức năng của hệ thống tiền tệ bằng cách tạo ra nền tảng thanh toán mở, qua đó sẽ thúc đẩy cạnh tranh và đổi mới, kết nối tài sản điện tử với tiền NHTW.
Hơn nữa, các NHTW có thể đề ra quy định đảm bảo quyền riêng tư và sử dụng dữ liệu thanh toán một cách có trách nhiệm. Đối với CBDC và FPS, việc thiết kế này có thể phối hợp những tính năng hỗ trợ dịch vụ thanh toán thông suốt mà không nhất thiết phải kiểm soát dữ liệu của PSP tư nhân. Bên cạnh những đặc điểm chung, CBDC có những đặc tính riêng của tiền điện tử NHTW hiện nay. Tại mỗi CBDC, một giao dịch thanh toán chỉ liên quan đến việc chuyển giao trực tiếp qua NHTW từ một người sử dụng cuối cùng sang người sử dụng khác, không qua bất kỳ trung gian tài chính nào. Các giao dịch được dàn xếp trực tiếp bằng tiền NHTW, trên bảng cân đối kế toán của NHTW trong thời gian thực.
Một CBDC có thể chấp nhận thêm những dạng thức thanh toán trực tiếp khác, không cần đến trung gian tín dụng và vì thế đơn giản hóa cấu trúc của hệ thống tiền tệ, có thể khắc phục tình trạngchi phí cao và kém hiệu quả trong thanh toán qua biên giới. Ở cấp độ cao hơn, CBDC có thể đưa ra mối liên kết rõ ràng giữa công chúng và NHTW giống như đối với tiền mặt, và các CBDC có thể tiếp tục duy trì mối liên kết này ngay cả khi lượng tiền mặt giảm.
Ngoài ra, việc một quốc gia lựa chọn để giới thiệu CBDC, FPS hoặc những hệ thống khác sẽ tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước. Theo kết quả điều tra gần đây, việc xem xét tính an toàn thanh toán và ổn định tài chính tại các đồng tiền điện tử (AE) có vẻ rất khó khăn, chủ yếu là do tiền mã hóa và stablecoins gây ra.
Cấu trúc CBDC và hệ thống tài chính
Để CBDC thành công, cần phân công lao động hợp lý giữa NHTW và khu vực tư nhân theo hướng bổ sung lẫn nhau: NHTW tạo dựng hạ tầng cơ bản của hệ thống tiền tệ, và PSP tư nhân sử dụng để phục vụ khách hàng. Trong dài hạn, các ngân hàng, fintech và big tech sẽ được sắp xếp lại, qua đó dẫn dắt những sáng kiến đổi mới, kết nối dịch vụ thanh toán với khách hàng và những sản phẩm tài chính khác.
Về cơ bản, CBDC được thiết kế tốt nhất theo hướng là một phần của hệ thống hai cấp, trong đó NHTW và khu vực tư nhân đóng vai trò riêng phù hợp. Bước đi có lô-gic là thiết kế theo hướng ủy quyền (giao) những nhiệm vụ cơ bản và hoạt động đối diện với người tiêu dùng cho các NHTM và PSP phi ngân hàng, NHTW tập trung vào việc vận hành lõi của hệ thống.
Đặc điểm kỹ thuật quan trọng của CBDC là nó bao gồm sổ cái điện tử - ghi chép các giao dịch thanh toán. Sổ cái điện tử gợi ý hai lựa chọn thiết kế quan trọng: CBDC sẽ lệ thuộc vào một trung tâm để duy trì sổ cái giao dịch, hay dựa trên hệ thống quản trị phi tập trung.
Mỗi cấu trúc CBDC đều đối mặt với các vấn đề về quản trị dữ liệu, và vì thế có thể phải bổ sung quy định để bảo vệ dữ liệu. Để xử lý những lo ngại về bảo vệ dữ liệu, việc thiết kế CBDC có thể liên kết với những mức độ ẩn danh khác nhau.
Về tổng thể, cấu trúc hai cấp được cho là hướng đi hứa hẹn nhất khi thiết kế hệ thống thanh toán, trong đó các NHTW cung cấp các nền tảng và khu vực tư nhân xử lý trực tiếp những vấn đề với khách hàng.
Trong hệ thống như vậy, PSP có thể tiếp tục tạo thu nhập từ các khoản phí và hưởng lợi từ việc mở rộng khách hàng thông qua việc cung cấp CBDC và dịch vụ kèm theo. Trong hệ thống này, các NHTM vẫn đóng vai trò trung gian, và CBDC sẽ nhận được các công cụ hỗ trợ chính sách, qua đó giảm thiểu tình trạng phân nhánh không mong đợi trong hệ thống tài chính.
Nhận dạng và quyền riêng tư trong thiết kế CBDC
Để bảo đảm khả năng tiếp cận và tính vẹn toàn của hệ thống tài chính, nhận dạng là vấn đề trung tâm trong thiết kế CBDC và phải gắn chặt với ID điện tử, và bảo vệ quyền riêng tư.
Các big tech như Google, Facebook đã phát triển ID điện tử riêng, đáp ứng được đòi hỏi của nhiều ứng dụng thanh toán. Tại Đức, ký hiệu “yes®” cho phép khách hàng của ngân hàng tiết kiệm và hợp tác xã tín dụng sử dụng như ID điện tử trong giao dịch trực tuyến.
Một số quốc gia áp dụng mô hình đối tác công tư. Ngoài ra, mô hình cộng tác theo hướng thị trường cũng được áp dụng. Thí dụ, liên minh ngân hàng Thụy Điển đã phát triển giải pháp BankID, cho phép người dùng tự xác thực để thanh toán và sử dụng dịch vụ công.
Phát hành CBDC trên phạm vi quốc tế
CBDC có thể mở đường cho đổi mới và cải thiện thanh toán quốc tế, nhưng cần xử lý tác động của nó qua biên giới, do tiền kỹ thuật số của nước ngoài có thể thay thế đồng bản tệ và an ninh tiền tệ quốc gia. Với những lý do này, hợp tác quốc tế về tiền tệ có thể xử lý hầu hết những rủi ro về thay thế tiền điện tử bắt nguồn từ việc sử dụng CBDC qua biên giới, đồng thời thúc đẩy sự hình thành hệ thống thanh toán mạnh mẽ, có thể xử lý được những thách thức hiện nay. Trong đó, multi-CBDC (mCBDC) được kỳ vọng sẽ kết nối các CBDC xuyên biên giới.
Có thể nói, trong bối cảnh các đồng tiền mã hóa, stablecoins và big tech dựa trên hệ thống thanh toán đều có xu hướng chống lại lợi ích xã hội, CBDC được cho là cơ hội để thiết kế đồng tiền số củaNHTW với những đặc tính duy nhất, là giải pháp cần nghiên cứu cho hệ thống thanh toán hiện nay.