Kinh tế Việt Nam
Phục hồi bền vững sau đại dịch
Bài: Huyền Trang (thực hiện)
Trao đổi với Người Dẫn Đầu, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc điều hành Economica Việt Nam nhấn mạnh, gói hỗ trợ phục hồi phát triển kinh tế - xã hội quy mô 350.000 tỷ đồng, tương đương 4,3% GDP sẽ tiếp thêm sức mạnh để doanh nghiệp và nền kinh tế có thể phục hồi nhanh và bền vững.
Bài toán khó
khi ngân hàng muốn duy trì tăng trưởng tín dụng cao
Bài: Ths. Vũ Thị Thu Hà
Trong quá trình điều hành, Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh chỉ tiêu của một số tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo hỗ trợ mở rộng tín dụng có hiệu quả cho doanh nghiệp và người dân, qua đó góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát ở mức hợp lý.
Kinh tế Việt Nam:
Phục hồi bền vững sau đại dịch
Kinh tế Việt Nam:
Phục hồi bền vững sau đại dịch
Bài toán khó khi ngân hàng muốn duy trì
tăng trưởng tín dụng cao

Cộng đồng doanh nghiệp mong Chính phủ, địa phương hỗ trợ mạnh mẽ hơn về nguồn vốn, thuế, cũng như giảm bớt điều kiện kinh doanh chưa phù hợp.

Ở thời điểm hiện tại, ít nhiều có thể khẳng định, nền kinh tế Việt Nam đã bước vào giai đoạn phục hồi. Ông đánh giá như thế nào về tốc độ phục hồi kinh tế hiện nay, thưa ông?

Từ quan sát cá nhân, tôi cho rằng nền kinh tế đang bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ với nhiều tín hiệu tích cực. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiếp nối đà phát triển của quý I/2022, tình hình kinh tế tháng 4/2022 của nước ta tiếp tục khởi sắc. Thậm chí, nhiều ngành đạt kết quả tốt hơn những năm trước đại dịch, trong đó nổi bật là lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Bốn tháng đầu năm 2022, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2022 tăng thấp nhất trong mức tăng của tháng 4 giai đoạn 2017-2022; an ninh lương thực, năng lượng được bảo đảm; thu ngân sách Nhà nước ước đạt 45,7% dự toán, tăng 13,3%.

Cùng với đó, sản xuất công nghiệp tháng 4 ước tính tăng 2% so với tháng 3 và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này là do dịch COVID-19 đã được kiểm soát, các doanh nghiệp chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất. Đây sẽ là tiền đề quan trọng giúp nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ và bứt phá trong tương lai.

Trong bối cảnh đó, việc thực thi gói hỗ trợ 350.000 tỷ đồng của Nhà nước để phục hồi phát triển kinh tế có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?

Quản trị vận hành chương trình phục hồi là yếu tố quyết định thành công của gói hỗ trợ nói chung và của chương trình phục hồi kinh tế nói riêng. Với chương trình phục hồi kinh tế lần này, một lần nữa Chính phủ đã cho thấy quyết tâm hành động với một số điểm nhấn trọng tâm, trọng điểm trong chương trình phục hồi nhanh và phát triển bền vững, như thông điệp của Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Trên thực tế, gói hỗ trợ này đã đi vào thực hiện theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình (Nghị quyết 11/NQ-CP). Chương trình đã bước đầu cho thấy các tác động tích cực, cả trực tiếp và gián tiếp, đối với nền kinh tế. Trực tiếp nhất là việc các bộ, ngành đã rất khẩn trương xây dựng các văn bản pháp luật, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của chương trình, chẳng hạn như điều chỉnh thuế suất VAT từ 10% xuống còn 8% ngay từ đầu tháng 2/2022.

Bên cạnh đó, việc hỗ trợ nền kinh tế còn được thực hiện khẩn trương thông qua những chính sách mới ngoài Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế (như việc tích cực xây dựng đề xuất giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu có hiệu lực từ 1/4/2022, điều chỉnh giới hạn giờ làm thêm,…) hay chuẩn bị nền tảng thể chế cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.

Cộng đồng doanh nghiệp đã có tâm lý và kỳ vọng tích cực, kể cả ngay trước và sau khi ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP. Số doanh nghiệp thành lập mới trong 2 tháng đầu năm tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2021, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cũng tăng 102,5%.

Theo ông, lộ trình thực hiện chính sách này cần ưu tiên và đẩy mạnh những nhiệm vụ cụ thể nào?

Việc triển khai Nghị quyết 11/NQ-CP bước đầu đã tạo động lực và tâm lý tích cực cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân nhằm tạo đà phục hồi kinh tế. Trên nền tảng ấy, một số nhiệm vụ cần khẩn trương hơn trong thời gian tới là:

Thứ nhất, khẩn trương rà soát, xây dựng danh mục nhiệm vụ, dự án, phân bổ vốn đầu tư công thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, phương án điều chỉnh linh hoạt nguồn vốn đầu tư công của Chương trình và kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.

Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn 2021-2025, vốn đầu tư công thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Thứ ba, khẩn trương ban hành các văn bản liên quan để triển khai các biện pháp hỗ trợ cụ thể trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, như về trình tự, thủ tục, quy trình thẩm định, phê duyệt, chỉ định thầu thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan đối với gói thầu tư vấn, gói thầu dịch vụ di dời hạ tầng kỹ thuật,… hay về quy định thực hiện hỗ trợ lãi suất cho vay từ ngân sách đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, thực hiện sớm các cải cách, chính sách cụ thể nhằm mở rộng không gian kinh tế cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Một số nội dung cần sớm ban hành là Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, hay các quy định, cơ chế phát triển kinh tế tuần hoàn.

Và hiển nhiên, một quy trình tường minh, sáng rõ sẽ là nền tảng cho sự thành công của Chương trình phục hồi kinh tế?

Đúng vậy. Với vấn đề này, tôi muốn lưu ý mấy điểm sau:

Một là, các quy định cần sớm ban hành, song cũng cần bảo đảm tham vấn đầy đủ cộng đồng doanh nghiệp và các bộ, ngành, địa phương nhằm tránh những bất cập phát sinh ngay sau khi ban hành.

Hai là, các tiêu chí, điều kiện để tiếp cận các biện pháp hỗ trợ phải bảo đảm cụ thể, minh bạch, khả thi để thực hiện được ngay, tránh tình trạng phải tiếp tục ban hành những hướng dẫn thực hiện chi tiết.

Ba là, cần thường xuyên tham vấn cộng đồng doanh nghiệp và người dân, đánh giá kết quả thực hiện các biện pháp hỗ trợ để kịp thời tháo gỡ những vấn đề phát sinh, hay nhân rộng những điển hình tốt.

Và cuối cùng, một môi trường kinh doanh lành mạnh và lý tưởng cũng sẽ giúp làm sạch những tiêu cực trong quá trình triển khai Chương trình phục hồi kinh tế.

Nhưng, cũng phải thừa nhận một thực tế rằng, việc triển khai gói kích thích cũng có những rủi ro như lạm phát, vốn rẻ chảy vào một số lĩnh vực nóng, không khuyến khích. Theo ông, đâu là bài học để chúng ta rút kinh nghiệm từ các gói kích thích như năm 2008?

Đúng là chúng ta có bài học, mới đây thôi là giai đoạn 2008-2010, thời điểm nền kinh tế chịu khủng hoảng nặng nề, do tác động từ bên ngoài. Chúng ta có gói cứu trợ lớn so với quy mô kinh tế thời điểm đó. Một trong những biện pháp thực hiện là cấp bù lãi suất, điều này tạo ra nhiều méo mó thị trường.

Một số nội dung cần sớm ban hành là Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, hay các quy định, cơ chế phát triển kinh tế tuần hoàn.

Với gói cấp bù bơm lượng tiền rất lớn ra thị trường, năm 2009-2010, lạm phát có thời điểm lên tới 15-18%, doanh nghiệp phải trả lãi suất vay vốn ngân hàng tới 21-22%, rõ ràng không một doanh nghiệp nào mong muốn. Như vậy, có thể một số bộ phận doanh nghiệp được hưởng lãi suất cấp bù trong thời gian ngắn nhưng để lại hệ luỵ lớn là rất nhiều doanh nghiệp khác, có cả những doanh nghiệp đang “khỏe mạnh”, hay chính những doanh nghiệp đang được hưởng cấp bù lãi suất bị tác động tiêu cực phải vay vốn với lãi suất cao. Đây là hệ luỵ chúng ta đã nhìn thấy, chứ không quá xa.

Bên cạnh đó, khi thực hiện chính sách cấp bù lãi suất cho một số nhóm doanh nghiệp đã vô tình tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt với người tiếp cận nguồn vốn này. Không loại trừ nhiều doanh nghiệp vay đảo nợ, trả nợ cũ, không đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thậm chí nhiều trường hợp, doanh nghiệp vay vốn dù không có nhu cầu, người biết cách tiếp cận nguồn vốn hưởng lợi chứ không phải người cần vốn thực sự, vay rồi họ cho vay lại để hưởng chênh lệch. Thêm vào đó, điều này làm phương hại, xói mòn nguyên tắc thương mại, phân bổ nguồn lực, tạo ra quyết định về tín dụng mang tính chất không khách quan, dẫn tới sức khỏe của hệ thống ngân hàng thương mại bị suy yếu.

Rõ ràng sau đó, dù không hoàn toàn do cấp bù lãi suất nhưng đây là một nguyên nhân khiến một số ngân hàng thời điểm đó rơi vào tình trạng khó khăn. Điều này là rủi ro phải tính toán đến, bởi cấp bù lãi suất chỉ đem lại lợi ích trước mắt. Do vậy, cần cân nhắc phương án hỗ trợ cần thiết, nếu không chính doanh nghiệp sẽ phải trả giá khi xảy ra rủi ro. Đặc biệt, chúng ta cần phải tính đến sử dụng hết nguồn lực, dư địa hiện có, năng lực giải ngân. Nếu làm được điều này, theo tôi, gói kích thích chỉ 300.000-400.000 tỷ đồng là vừa. Chúng ta luôn đặt vấn đề tìm kiếm nguồn lực nhưng sử dụng không hiệu quả thì không nên.

Cuối cùng, xin được hỏi thêm ở góc độ doanh nghiệp. Theo ông, để tận dụng hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ, bản thân doanh nghiệp cũng phải tái cơ cấu mô hình kinh doanh ra sao?

Khi có các quy định cụ thể về hỗ trợ lãi suất cho vay từ nguồn ngân sách nhà nước trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, doanh nghiệp cần chủ động điều chỉnh mô hình kinh doanh để bảo đảm tận dụng hiệu quả. Một mặt, các doanh nghiệp phải bảo đảm các hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn vay đáp ứng quy định về đối tượng khách hàng vay vốn được hỗ trợ lãi suất. Các hoạt động này không nhất thiết phải theo cách thức doanh nghiệp đã và đang thực hiện, mà có thể gắn với các mô hình kinh tế mới, như kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, hay hoạt động dịch vụ thông tin gắn với chuyển đổi số… Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần đánh giá những cơ hội mới từ thị trường nước ngoài, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do, để bảo đảm đầu ra hiệu quả.

Xin cảm ơn ông!

Nhiều ngân hàng đã sử dụng hết hạn mức tăng trưởng tín dụng (TTTD) được cấp hồi đầu năm. Thông thường hết quý II hằng năm Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ có đợt xem xét khả năng điều chỉnh chỉ tiêu TTTD cho các tổ chức tín dụng (TCTD). Tín dụng khởi sắc, ngân hàng tiếp tục giữ được nhịp tăng trưởng lợi nhuận cao. Nhưng khó khăn đang chờ phía trước, bởi trong điều kiện môi trường kinh doanh chịu nhiều tác động từ dịch COVID-19 và cả biến động địa chính trị toàn cầu thì không chỉ NHNN phải thận trọng hơn trong điều hành cung tiền; mà bản thân các TCTD cũng đứng trước áp lực điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chi phí hoạt động để đạt được mục tiêu kinh doanh của mình cũng như tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý.

Ổn định mặt bằng lãi suất: Bài toán khó

Theo số liệu của NHNN, tính đến ngày 25/4, tín dụng toàn nền kinh tế đã tăng tới 6,75% so với cuối năm 2021 và tăng 16,4% so với cùng kỳ. Đây là mức tăng mạnh nhất trong 10 năm trở lại đây. Năm 2022, bám sát các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát bình quân được Quốc hội và Chính phủ đặt ra từ đầu năm, NHNN đã xây dựng chỉ tiêu định hướng tín dụng cả năm tăng khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Với tốc độ tăng như hiện nay, TTTD sẽ đạt và vượt mục tiêu NHNN đưa ra từ đầu năm.

Thống kê sơ bộ, hiện các NHTM Nhà nước vẫn chiếm trên 60% thị phần tín dụng và có tốc độ TTTD cao. Đơn cử như Vietcombank, riêng trong quý I/2022, tín dụng ngân hàng này tăng trưởng 6,9% - mức cao nhất trong nhiều năm qua.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể cũng chỉ đạt từ 5,5-6%. Việc Fed tăng lãi suất tuy không có tác động mạnh, nhưng mặt bằng lãi suất tại Việt Nam cũng khó tránh ảnh hưởng.

Tín dụng tăng trưởng tốt bởi nền kinh tế hồi phục nhanh, cầu vốn tín dụng tăng và dự báo sẽ còn tăng trong những quý tới. Chuẩn bị vốn đáp ứng nhu cầu vay của người dân, doanh nghiệp, các NHTM đã tăng cường huy động vốn nhưng tốc độ tăng của nguồn vốn huy động vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của tín dụng. Việc tín dụng tăng mạnh vượt dự báo là nguyên nhân khiến thanh khoản các ngân hàng gặp căng thẳng. Trên thị trường liên ngân hàng, các giao dịch VND chủ yếu tập trung vào kỳ hạn qua đêm (trên 70%) và lãi suất cho vay qua đêm đã có lúc ở mức trên 2%/năm; lãi suất kỳ hạn 1 tuần và 1 tháng cũng được duy trì ở mức 2,22%/năm đến 2,55%/năm.

Thời gian tới, công tác huy động vốn của ngân hàng vẫn sẽ khó, bởi tác động lớn từ thị trường trong và ngoài nước. Ngày 5/5, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã quyết định nâng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm. Đây là mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2000 nhằm kiềm chế lạm phát tại Mỹ đang ở mức cao nhất trong 40 năm qua.

Theo dự đoán của TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia, tiến trình tăng lãi suất, thắt chặt tiền tệ của Mỹ được đẩy nhanh và có thể kéo dài trong vài ba năm, điều này có thể ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể cũng chỉ đạt từ 5,5-6%. Việc Fed tăng lãi suất tuy không có tác động mạnh, nhưng mặt bằng lãi suất tại Việt Nam cũng khó tránh ảnh hưởng.

Trong nước, những lùm xùm trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp và việc chỉ số VN-Index liên tục mất mốc quan trọng đã khiến dòng tiền tạm thời nhàn rỗi quay trở lại ngân hàng. Tuy nhiên, áp lực lớn nhất đối với công tác huy động vốn hiện nay là kỳ vọng lạm phát. Lạm phát của nhiều quốc gia trên thế giới đang tăng ở mức chưa từng thấy trong nhiều năm qua, khiến kỳ vọng lạm phát của người dân Việt Nam tăng cho dù đến thời điểm hiện tại, lạm phát được cho là vẫn trong tầm kiểm soát.

Vì kỳ vọng lạm phát tăng nên đa số người dân khi gửi tiền sẽ không chọn kỳ hạn dài; và bản thân các NHTM cũng không “mạo hiểm” áp dụng biểu lãi suất huy động theo đúng quy luật của đường cong lãi suất chuẩn: kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Thực tế, một số NHTM đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất huy động từ cuối năm 2021. Nếu thời điểm đó, việc tăng lãi suất huy động nhằm “cạnh tranh” với lực hấp dẫn của thị trường chứng khoán, bất động sản, thì nay, các NHTM phải tăng lãi suất vì tín dụng tăng nhanh và áp lực từ lạm phát tăng.

Hiện không ít biểu lãi suất của các NHTM kỳ hạn 12 tháng bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi kỳ hạn 24 tháng. Đợt điều chỉnh tăng lãi suất của hơn chục ngân hàng thời điểm trung tuần tháng 5/2022 cho thấy trên thị trường đã xuất hiện mức lãi suất huy động cao nhất đang ở mức gần 8%/năm.

TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định, áp lực tăng lãi suất huy động cũng sẽ lớn hơn trong giai đoạn từ nay cho tới cuối năm, đặc biệt khi kỳ vọng lạm phát của người dân ngày càng tăng cao và buộc các ngân hàng phải huy động lãi suất tiền gửi cao hơn. Điều này cũng sẽ kéo theo những áp lực nhất định đối với lãi suất cho vay.

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cho rằng, động thái tăng lãi suất huy động có thể gây khó khăn cho nỗ lực thực hiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của Chính phủ mà hệ thống ngân hàng đã và đang quyết liệt triển khai. Trước Chương trình này, ngành Ngân hàng đã tích cực triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn bởi dịch COVID-19.

Thời gian qua, các ngân hàng đã thực hiện cơ cấu lại các khoản cho vay cũ và tiếp tục cho vay mới với lãi suất thấp. Nhưng tới đây, với sức ép từ việc tăng lãi suất của Fed cũng như áp lực lạm phát trong nước tăng cao (do nhiều yếu tố) thì việc giảm lãi suất cho vay khoảng 0,5% - 1%/năm trong hai năm tới ngày càng khó khăn hơn. Việc bình ổn được mặt bằng lãi suất như hiện tại cũng đã là nỗ lực đáng ghi nhận của các ngân hàng.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Tổng Giám đốc phụ trách Ban điều hành Vietcombank cho biết, ngân hàng đang triển khai nhiều chương trình cho vay ưu đãi với quy mô lớn, mức lãi suất cho vay thấp, áp dụng với cả khách hàng cá nhân và tổ chức. Bên cạnh đó, Vietcombank cũng tích cực tiết giảm chi phí hoạt động, cơ cấu lại nguồn huy động vốn đầu vào để giảm chi phí huy động vốn, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay khách hàng. “Vietcombank tin tưởng sẽ duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ổn định trong năm 2022, hỗ trợ tối đa doanh nghiệp và cá nhân vì mục tiêu chung tăng trưởng kinh tế và trở lại cuộc sống bình thường sau đại dịch”, ông Tùng nói.

NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng.

“Bóng ma” nợ xấu

Tín dụng tăng trưởng nhanh, tỷ lệ nợ xấu của nhiều ngân hàng cũng tăng và có nguy cơ vượt mức 3%. Hiện chỉ có một số ít ngân hàng vẫn duy trì tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay ở mức dưới 1% như Vietcombank, BIDV, ACB, MB... Đây đều là những ngân hàng được thị trường đánh giá cao về chất lượng tài sản trong vài năm trở lại đây.

Tuy nhiên, hiện nay, nợ xấu của toàn ngành Ngân hàng chưa được phản ánh đầy đủ bởi các TCTD đang thực hiện Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng COVID-19. Thông tư này hết hiệu lực thi hành vào ngày 30/6/2022.

Khi khách hàng không được gia hạn thì nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu theo Thông tư này nhiều khả năng được thể hiện rõ ràng hơn trên bảng cân đối tài sản của các ngân hàng, khiến tỷ lệ nợ xấu sẽ “lộ” rõ hơn. Không những thế, khi ngân hàng chấm dứt cơ cấu lại nợ, chuyển nhóm nợ về đúng thực trạng của nó thì khả năng nhiều khách hàng không còn đủ điều kiện được vay vốn hay duy trì hạn mức tín dụng được cấp hiện nay.

Năm nay, Quốc hội thông qua chỉ tiêu tăng trưởng GDP là khoảng 6-6,5%; kiểm soát lạm phát ở mức 4%. Tuy nhiên, dịch COVID-19 tiếp tục hoành hành khắp thế giới, chuỗi cung ứng chưa kịp nối lại, giờ thêm tác động từ xung đột Nga-Ukraine khiến đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu càng thêm trầm trọng, lạm phát tăng cao ngày càng hiện hữu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong nước, ngoài những yếu tố tác động này, đặc thù nền kinh tế Việt Nam là vốn đầu tư chủ yếu vẫn dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam hiện đã trên 140% - nằm trong nhóm nước có tỷ lệ cao nhất theo đánh giá của quốc tế. Nếu để tỷ lệ này tiếp tục tăng cao và vốn vay trung dài hạn cũng dựa nhiều vào ngân hàng trong khi kỳ hạn bình quân vốn huy động giảm sẽ tạo áp lực lớn đối với việc cân đối vốn của hệ thống ngân hàng và cân đối vĩ mô.

Chủ trương chung của NHNN những năm gần đây là điều hành linh hoạt các giải pháp tín dụng nhằm kiểm soát quy mô, TTTD phù hợp với cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro được kiểm soát chặt chẽ. NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát quy mô tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát lạm phát, tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng.

Lãnh đạo vụ chức năng NHNN cho biết, trong quá trình điều hành, NHNN xem xét điều chỉnh chỉ tiêu của một số TCTD nhằm đảm bảo hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả cho doanh nghiệp và người dân, qua đó góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát ở mức hợp lý. Như mọi năm, NHNN tiếp tục chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng hiệu quả; tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, cho vay ngoại tệ…; tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án BOT, BT giao thông.

Sẽ có những NHTM được NHNN cấp thêm room tăng tín dụng, song cái khó của ngân hàng là phải nâng cao chất lượng tín dụng để hạn chế phát sinh nợ xấu mới; đồng thời, tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động để duy trì mức NIM phù hợp trong bối cảnh lãi suất huy động có xu hướng tăng.