Ứng dụng
Xu hướng thiết yếu với các ngân hàng
Trước kia, ngân hàng sử dụng mô hình thống kê để tạo thuận lợi cho các quyết định cho vay. Ngày nay, hầu hết mọi quy trình trong ngân hàng đều liên quan đến phân tích dữ liệu lớn theo thời gian thực. Tuy nhiên, quyết định được đưa ra trên cơ sở các mô hình vẫn chưa hoàn hảo, và việc quản lý vận hành theo mô hình là một trong những vấn đề lớn đối với các ngân hàng. MLOps có thể giúp giải quyết vấn đề này.
Vietcombank phấn đấu
duy trì lãi suất
trong năm
2022
THỰC HIỆN: Trang Trần
Riêng trong quý I/2022, tín dụng Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã tăng trên 66.000 tỷ đồng, đạt mức tăng trưởng 6,9%, cao nhất trong nhiều năm qua. Người Dẫn Đầu có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Thanh Tùng - Phó Tổng Giám đốc phụ trách Ban Điều hành Vietcombank xoay quanh dấu ấn tăng trưởng này của Ngân hàng.
Amadeo Giannini:
Người thay đổi lịch sử
ngân hàng
thế giới
Bài: Diệu Anh (tổng hợp)
70 năm sau khi Giannini qua đời, Ngân hàng Mỹ vẫn đang giữ vai trò then chốt trong ngành ngân hàng tại Mỹ
Ứng dụng MLOps
Xu hướng thiết yếu
với các ngân hàng
Ứng dụng MLOps
Xu hướng thiết yếu
với các ngân hàng
Vietcombank phấn đấu
duy trì lãi suất trong năm 2022
Amadeo Giannini:
Người thay đổi lịch sử
ngành ngân hàng thế giới
MLOps là gì?

MLOps là kết hợp giữa học máy Machine Learning (ML) với các hoạt động công nghệ thông tin, tập trung vào việc thống nhất ba lĩnh vực quan trọng: con người, quy trình và công nghệ. Hoạt động học máy MLOPs là một biến thể của DevOps. Trong khi DevOps tập trung vào tối ưu hóa quy trình phát triển ứng dụng công nghệ thông tin thì MLOps dành cho phân tích. Cùng với việc ảnh hưởng đến phân tích dự đoán, MLOps cho phép phát triển và triển khai mô hình thống kê trơn tru, liên tục và hiệu quả.

Do sự áp dụng nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) và máy học, các mô hình mới cũng đang xuất hiện nhanh chóng. Mặc dù nhiều tổ chức nhận ra tầm quan trọng của việc phát triển dữ liệu, nhưng trong quá trình chuyển đổi số liên tục, việc làm việc với các mô hình là một thách thức và có nguy cơ sai sót cao.

MLOps giúp thúc đẩy giao tiếp giữa các nhà khoa học dữ liệu, kỹ sư thiết kế cơ sở dữ liệu, chủ sở hữu ứng dụng và chủ sở hữu cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, MLOps điều phối quá trình xử lý và thực thi hoàn hảo để các mô hình tự động hóa quy trình làm việc, kiểm soát phiên bản, tính toán quản lý tài nguyên, giám sát, mở rộng quy mô và tùy chỉnh.

MLOps giúp thúc đẩy giao tiếp giữa các nhà khoa học dữ liệu, kỹ sư thiết kế cơ sở dữ liệu, chủ sở hữu ứng dụng và chủ sở hữu cơ sở hạ tầng.

Vai trò của MLOps trong ngân hàng

Máy học trong tài chính đã xuất hiện được một thời gian, nhưng nó hầu như chỉ được áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể, tương đối hẹp, chẳng hạn như phát hiện gian lận, bảo trì dự đoán của các hệ thống kế thừa và quản lý lợi nhuận.

Tuy nhiên, gần đây, MLOps đã nổi lên như một loại giải pháp rộng lớn bao gồm học máy và tự động hóa, áp dụng điện toán đám mây và kỹ thuật dữ liệu. Những giải pháp này giúp các ngân hàng có được những bước đổi mới vượt bậc. Khi các ngân hàng chuyển đổi số, họ phải đối mặt với thách thức trong việc tạo ra một môi trường linh hoạt và nhanh cho các hệ thống công nghệ thông tin.

Việc áp dụng công nghệ mới cũng đi kèm theo nhiệm vụ là phải quản lý chúng một cách thật sự hiệu quả. Và, quản lý công nghệ thông tin không phải là một hoạt động đơn lẻ. Nó yêu cầu một cách tiếp cận tổng thể toàn bộ môi trường làm việc đồng thời với việc tối ưu hóa và khắc phục sự cố.

Khắc phục sự cố là chìa khóa để nhanh chóng xác định và khắc phục các vấn đề phát sinh trước khi chúng leo thang. Tuy nhiên, các cách tiếp cận truyền thống để khắc phục sự cố như gửi cảnh báo qua email hoặc nhắn tin không phải là cách hiệu quả để quản lý quy trình này. Do đó, các tổ chức đang tìm kiếm những cách thức mới để tự động hóa việc khắc phục sự cố và cải thiện chất lượng của môi trường kinh doanh trên quy mô lớn.

Khi khối lượng dữ liệu tiếp tục phát triển nhanh chóng và khổng lồ với các công nghệ mới như IoT, AI, robot và giao diện tương tác, MLOps đang nổi lên như một phần cơ sở hạ tầng quan trọng cho các ngân hàng tận dụng những cơ hội mới này. MLOps cho phép phân tích dữ liệu thời gian thực từ nhiều nguồn trên tất cả các bộ phận của tổ chức - người dùng doanh nghiệp, nhóm triển khai hoạt động công nghệ thông tin, nhà phát triển, đảm bảo, kiểm tra chất lượng và phân tích bảo mật.

Nó giúp đưa ra quyết định ở mọi giai đoạn phát triển ứng dụng. Nó cũng cho phép các ngân hàng tận dụng tiềm năng con người chưa được khai thác bằng cách tự động hóa các nhiệm vụ thông thường đòi hỏi nguồn lực có tay nghề cao hoặc chuyên môn về một mảng công việc nào đó.

Tốc độ là ưu thế của MLOps

Lợi ích to lớn khi áp dụng MLOps là tốc độ xử lý dữ liệu. Giả sử ngân hàng có 1 triệu khách hàng và hơn vài tỷ bản ghi giao dịch khách hàng. Mỗi giao dịch có bản chất khác nhau. Vậy làm cách nào để ta có thể biết trung bình mỗi khách hàng chi bao nhiêu tiền mỗi tháng? Hay ai là những khách hàng có giá trị thấp chỉ chi tiêu dưới 1 triệu đồng/tháng? Và ngân hàng nên cung cấp cho họ ưu đãi nào để tăng doanh thu trung bình?

Mặc dù con người có thể đọc bảng cân đối kế toán và hiểu dữ liệu, nhưng nhà phân tích sẽ mất rất nhiều thời gian để có được thông tin trên sau khi phân tích dữ liệu. Và nếu có nhiều hơn một sản phẩm để phân tích hoặc nhiều hơn một loại khách hàng, thì thời gian mất đi càng nhiều. Nhóm IT sẽ rất khó khăn để có được thông tin phân tích.

Trong hầu hết các trường hợp, vấn đề xảy ra với hoạt động phân tích thường liên quan đến một hoặc nhiều yếu tố: dữ liệu lớn, khả năng mở rộng hệ thống, độ tin cậy, hiệu suất và khả năng truy cập. Và có thể mất nhiều tháng và nhiều năm để hoàn thành tất cả các vấn đề liên quan trên.

Và, áp dụng MLOps có thể giúp xử lý những vấn đề như vậy trong thời gian thực. MLOps có thể thực hiện tất cả những phép tính phức tạp và có được câu trả lời nhanh chóng. Nó kết hợp 3 lĩnh vực riêng biệt: khoa học dữ liệu, học máy và hoạt động đơn giản hóa các vấn đề phân tích dữ liệu. MLOps có thể giải quyết những vấn đề này bằng cách tự động điều chỉnh thuật toán, xác định tắc nghẽn, phân tích nhật ký hoạt động, chẩn đoán lỗi, sửa lỗi, theo dõi kết quả và tích hợp với các hệ thống hiện có...

MLOps có thể thực hiện tất cả những phép tính phức tạp và có được câu trả lời nhanh chóng. Nó kết hợp 3 lĩnh vực riêng biệt: khoa học dữ liệu, học máy và hoạt động đơn giản hóa các vấn đề phân tích dữ liệu.

Áp dụng và lợi ích của MLOps trong ngành ngân hàng

Bước đầu tiên để áp dụng MLOps thành công là thiết lập một môi trường khắc phục sự cố thích hợp. Điều này có nghĩa là các nhóm vận hành cần tạo đường cơ sở của các chỉ số sẽ được sử dụng để tham khảo cho bất kỳ thay đổi sắp diễn ra trước khi tự động hóa bất kỳ hoạt động nào. Ví dụ: bằng cách theo dõi mức sử dụng CPU, mức tiêu thụ bộ nhớ, số lượng quy trình và tập lệnh đang chạy, các nhóm có thể nhanh chóng xác định nguyên nhân gốc rễ khi sự cố xảy ra tại bất kỳ thời điểm nào.

Khi môi trường được thiết lập để đo lường trạng thái của nó mọi lúc một cách chính xác, đã đến lúc triển khai cơ chế cho phép tạo ra các vòng lặp phản hồi tự động giữa các chỉ số hiệu suất và các mục tiêu kinh doanh cụ thể. Loại vòng lặp phản hồi này tạo ra một hệ thống gần như chạy theo thời gian thực cho phép theo dõi liên tục các chỉ số hiệu suất trong khi theo dõi các mục tiêu kinh doanh chống lại chúng. Nó cũng đóng vai trò như một công cụ hữu dụng để phát hiện các bất thường trong hoạt động và xây dựng quy trình làm việc tự động mới dựa trên các quy tắc được xác định trước.

Với MLOps, các ngân hàng phát triển một cơ sở hạ tầng linh hoạt, nhanh và hiệu quả, có thể nhanh chóng tăng hoặc giảm quy mô để đáp ứng nhu cầu tăng đột biến. Điều này cho phép doanh nghiệp tập trung vào các nhiệm vụ kinh doanh với sự tham gia tối thiểu của công nghệ thông tin. Nó cũng đảm bảo rằng quy trình IT truyền thống không bị chặn hoặc chậm lại. MLOps khiến việc chia sẻ code và tái mô phỏng với các phiên bản được kiểm soát, và duy trì trên nhiều thư viện hoặc mở rộng các khuôn khổ mô hình hóa. Đồng thời, nó giúp cho việc tự động hóa tích hợp các mô hình AI/ML vào các ứng dụng trên tất cả các môi trường mà khách hàng đang giao dịch kỹ thuật số.

MLOps cũng làm giảm chi phí triển khai hệ thống AI/ML với môi trường tự quản lý theo các yêu cầu kiểm tra code nhất quán, kiểm soát phiên bản, truy xuất nguồn gốc và bảo mật ứng dụng độc lập, hoạt động tích hợp và tạo ra các kết quả liên tục, đồng thời tự động các lập phiên bản, tái lập kết quả trên quy mô hoạt động... Các ngân hàng có thể sử dụng dữ liệu của riêng mình để đào tạo các mô hình học máy. Điều này giúp ngân hàng không phải thuê ngoài dữ liệu của mình của bên thứ ba, những doanh nghiệp thường không muốn hoặc không có khả năng cung cấp dữ liệu cấp doanh nghiệp trên quy mô lớn. Các ngân hàng có cơ sở hạ tầng phù hợp có thể tạo ra dữ liệu, làm phong phú dữ liệu, đưa dữ liệu vào các hệ thống hạ nguồn và sau đó phân tích dữ liệu đó. Tất cả điều này là sẽ tạo ra các quyết định sáng suốt với một hệ thống chỉ huy và kiểm soát tập trung.

Tương lai của MLOps với ngành ngân hàng

MLOps đang có những bước khởi đầu thuận lợi trong ngành ngân hàng. Ngân hàng có rất nhiều dữ liệu với số lượng khổng lồ các giao dịch. Mỗi bộ phận khác nhau của ngân hàng có liên quan mật thiết nhưng lại giải quyết các vấn đề khác nhau. Trong khi cạnh tranh để kinh doanh, họ cũng hợp tác chia sẻ dữ liệu và các ý tưởng.

Điều đó nói lên rằng, tương lai của AI/ML trong ngân hàng chỉ mới bắt đầu và ngày càng nhiều các ứng dụng được xây dựng. Và để các ứng dụng này thành công, MLOps có một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù MLOps là xu hướng tất yếu trong ngành ngân hàng để nó trở nên phổ biến còn có nhiều khó khăn vì khoa học dữ liệu là một lĩnh vực non trẻ và các tổ chức thường thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết.

Cuối cùng, việc thống nhất dữ liệu trên “con người, quy trình và nền tảng” sẽ giúp ngân hàng đánh giá điểm mạnh, điểm yếu và cơ hội trong việc liên kết dữ liệu, con người, quy trình và nền tảng để đạt được bất kỳ mục tiêu kinh doanh nào theo thời gian thực. MLOps là tương lai và khi học máy trở nên phổ biến hơn, MLOps sẽ trở thành nhu cầu thiết yếu cho mọi doanh nghiệp.

Chào ông, 3 tháng đầu năm 2022, Vietcombank đã đạt thành tích ấn tượng về tăng trưởng tín dụng. Ông có thể cho biết vốn đang đổ nhiều nhất vào những lĩnh vực nào? Vietcombank hiện có những chương trình ưu đãi cho vay lãi suất thấp như thế nào?

Tín dụng tăng tập trung chủ yếu ở tín dụng cá nhân vay vốn để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu Tết Nguyên đán, vay thương mại tiêu dùng và tăng mạnh ở một số lĩnh vực như công nghiệp chế biến chế tạo (~17.500 tỷ đồng), bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác (~3.400 tỷ đồng), nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (~1.300 tỷ đồng).

Để đạt được mức tăng trưởng trên, ngay từ đầu năm, Vietcombank đã triển khai nhiều chương trình ưu đãi cho vay lãi suất thấp như chương trình lãi suất kinh doanh tài lộc, chương trình an tâm lãi suất, áp dụng cho cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, hay các chương trình cạnh tranh, thỏa thuận, đặc biệt áp dụng cho các doanh nghiệp có quy mô giao dịch lớn.

Mặt khác, từ cuối tháng 2/2022, Vietcombank đã triển khai chương trình cho vay thúc đẩy sản phẩm dịch vụ phi tín dụng lãi suất đặc biệt thấp áp dụng cho khách hàng doanh nghiệp với quy mô lên tới 40.000 tỷ đồng, dư nợ tại 31/3/2022 đạt trên 23.000 tỷ đồng. Đối với khách hàng bán lẻ, từ cuối tháng 3/2022, Vietcombank cũng triển khai hàng loạt chương trình lãi suất ưu đãi cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh với quy mô lên tới 130.000 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Thanh Tùng - Phó Tổng Giám đốc phụ trách Ban Điều hành Vietcombank

Nhiều doanh nghiệp khá lo lắng về việc lãi suất cho vay có thể tăng cao hơn khi thấy lãi suất huy động đang rục rịch tăng. Ông nhận định như thế nào về mặt bằng lãi suất năm nay? Vietcombank có giải pháp gì để ổn định lãi suất cho vay?

Lãi suất huy động và cho vay trong năm 2022 chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố vĩ mô trong và ngoài nước, trong đó có thể kể đến như biến động kinh tế thế giới hậu đại dịch và bất ổn chính trị, giá dầu và hàng hóa tăng mạnh gây áp lực lên lạm phát toàn cầu, các ngân hàng trung ương trên thế giới đã bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất. Ngày 4/5/2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã quyết định tăng lãi suất cao nhất trong hơn hai thập kỷ. Ngân hàng trung ương này đã nâng lãi suất chủ chốt lên 0,5 điểm phần trăm, sau khi tăng lên mốc 0,25 điểm phần trăm vào tháng 3 và dự kiến sẽ có nhiều lần nâng lãi suất nữa từ nay đến cuối năm.

Theo đó, lãi suất huy động trong nước cũng đã tạo đáy và có xu hướng tăng trong thời gian qua. Tuy nhiên, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra nhiều chính sách nhằm hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp trong năm 2022-2023, góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tích cực quá trình phục hồi và phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, trong ngắn hạn, lãi suất cho vay cơ bản ổn định, thậm chí có thể giảm nhẹ để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Về dài hạn, lãi suất cho vay sẽ biến động phù hợp với tình hình lạm phát và chi phí huy động vốn đầu vào của từng ngân hàng.

Vietcombank đã và đang triển khai các giải pháp đồng bộ để ổn định lãi suất cho vay, hỗ trợ phục hồi sản xuất sau đại dịch COVID-19. Cụ thể, Vietcombank đang triển khai nhiều chương trình cho vay ưu đãi với quy mô lớn, mức lãi suất cho vay thấp, áp dụng với cả khách hàng cá nhân và tổ chức. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng tích cực tiết giảm chi phí hoạt động, cơ cấu lại nguồn huy động vốn đầu vào để giảm chi phí, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay khách hàng.

Vietcombank cũng luôn tích cực đi đầu, tiên phong triển khai các đợt giảm lãi suất hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 trong năm 2021 và dự kiến sẽ tiếp tục triển khai trong năm 2022. Với các biện pháp đã và đang triển khai, Vietcombank tin tưởng sẽ duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ổn định trong năm 2022, hỗ trợ tối đa các doanh nghiệp và cá nhân vì mục tiêu chung tăng trưởng kinh tế và trở lại cuộc sống bình thường mới sau đại dịch.

Hiện tại, thị trường rất trông chờ gói hỗ trợ cấp bù lãi suất 2%. Theo ông, cơ chế cấp bù nên theo hướng như thế nào để đảm bảo an toàn vốn vay cho cả ngân hàng và doanh nghiệp?

Việc Chính phủ đưa ra gói hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại là linh hoạt và kịp thời. Tuy nhiên, cấp bù phải đưa ra tiêu chí rõ ràng, minh bạch về đối tượng được hưởng lãi suất để ngân hàng áp dụng cho đúng. Mục đích gói hỗ trợ là để giúp doanh nghiệp phục hồi, nên cần tập trung vào một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ hoặc có khả năng phục hồi. Gói tín dụng cần thực hiện nhanh, nhưng không vì thế mà cho doanh nghiệp “yếu” vay, nếu không nợ xấu sẽ tăng nhanh.

Để đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng và hiệu quả của việc hỗ trợ lãi suất cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Doanh nghiệp đề nghị hỗ trợ cần có phương án, kế hoạch kinh doanh cụ thể, để từ đó ngân hàng có cơ sở đánh giá hiệu quả kinh doanh cũng như dòng tiền trả nợ vay.

Sau khi hỗ trợ lãi suất, ngân hàng phải thường xuyên theo dõi, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo việc cấp bù lãi suất đúng và trúng đến các doanh nghiệp tiềm năng nhưng gặp khó khăn và có nhu cầu hỗ trợ chi phí vay vốn để khôi phục hoạt động kinh doanh. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến không trả được nợ vay, cần dừng việc hỗ trợ lãi suất để có phương án xử lý nợ phù hợp. Đồng thời, cũng cần có sự rà soát của các cơ quan như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và NHNN Việt Nam để việc triển khai từ các ngân hàng thương mại đến được đúng đối tượng cần hỗ trợ.

Với bất động sản, chứng khoán, Vietcombank có giải pháp gì để kiểm soát vốn vay vào các lĩnh vực rủi ro này?

Vietcombank luôn quán triệt các chỉ đạo của NHNN liên quan đến các lĩnh vực bất động sản, chứng khoán tới các đơn vị trong toàn hệ thống thông qua hệ thống văn bản chính sách, định hướng trong công tác tín dụng theo khách hàng, ngành hàng định kỳ cũng như đột xuất. Trong công tác quản trị nội bộ, Vietcombank thực hiện một số giải pháp để kiểm soát vốn vay vào các lĩnh vực này.

Một là, xây dựng các quy định về hạn mức/tỷ lệ tối đa về dư nợ cấp tín dụng, dư nợ cho vay với lĩnh vực bất động sản và chứng khoán nhằm kiểm soát rủi ro tập trung, đồng thời thường xuyên theo dõi, giám sát các hạn mức/tỷ lệ này.

Hai là, theo dõi, giám sát và quản lý danh mục tín dụng định kỳ hằng tháng, quý, trong đó bao gồm công tác rà soát, cảnh báo rủi ro và dự báo nợ xấu định kỳ nhằm nhận diện rủi ro sớm, đề xuất các biện pháp ứng xử tín dụng phù hợp.

Ba là, xây dựng và ban hành định hướng tín dụng, chính sách ngành đối với ngành/lĩnh vực bất động sản định kỳ cũng như đột xuất.

Bốn là, xây dựng và ban hành hướng dẫn về cấp tín dụng để đầu tư kinh doanh chứng khoán trên cơ sở tuân thủ quy định của NHNN và khẩu vị rủi ro của Vietcombank.

Năm là, xây dựng các sản phẩm chuẩn về cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản và chứng khoán, để thống nhất tiêu chí lựa chọn khách hàng, điều kiện cấp tín dụng và tăng cường theo dõi, giám sát tình hình cấp tín dụng đối với các lĩnh vực này.

Sáu là, định kỳ theo dõi, báo cáo NHNN theo quy định về số dư cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, chứng khoán và các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro khác.

Trong bối cảnh dịch bệnh, nhiều ngân hàng cũng đang nỗ lực đơn giản hóa thủ tục cho vay bằng các hình thức cho vay online. Hiện tại, Vietcombank có những giải pháp gì để đơn giản thủ tục vay vốn?

Trong thời gian giãn cách xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh, nhằm giải quyết vướng mắc cho khách hàng đối với việc luân chuyển hồ sơ vay vốn đến ngân hàng, Vietcombank đã triển khai phương thức tiếp nhận hồ sơ qua thư điện tử (email). Cụ thể, toàn bộ hồ sơ thẩm định, hồ sơ giải ngân được khách hàng cung cấp trước qua địa chỉ thư điện tử đã đăng ký với Vietcombank và bổ sung bản giấy, chứng từ gốc sau thời gian chấm dứt áp dụng các biện pháp phong tỏa/cách ly/giãn cách xã hội. Bên cạnh đó, Vietcombank luôn đề cao việc tinh giản hồ sơ và thủ tục vay vốn, không ngừng rút ngắn quy trình và thời gian phê duyệt khoản vay nhằm đáp ứng nhanh nhất nhu cầu vốn của khách hàng.

Ngoài các giải pháp tình thế, Vietcombank định hướng mục tiêu bền vững trong số hóa và cung ứng toàn bộ sản phẩm cho vay trực tuyến, đặc biệt chú trọng các sản phẩm có hành trình trọn vẹn trên kênh điện tử với nhiều tính năng ưu việt, thuận tiện và linh hoạt, đồng thời đảm bảo mức lãi suất hấp dẫn, phù hợp cho từng đối tượng khách hàng.

Xin cảm ơn ông!

Định mệnh đã chọn Giannini

Theo tiếng gọi của “Cơn sốt vàng California” năm 1847, Luigi Giannini và vợ là Virginia di cư từ Italy sang Mỹ. Năm 1870, họ sinh Amadeo Giannini. Thời điểm ấy, không ai nghĩ rằng cậu nhóc nhỏ bé này lại chính là người thay đổi lịch sử ngành ngân hàng thế giới.

Bố đẻ qua đời khi mới 2 tuổi, Giannini thiệt thòi hơn những đứa trẻ khác cùng trang lứa. Dù cha dượng Lorenzo Scatena đã hết mực thương yêu, Giannini vẫn cảm nhận được sự khó khăn trong tuổi thơ nghèo khó của mình. Năm 14 tuổi, khi cảm thấy việc học không mang nhiều ý nghĩa, Giannini quyết định nghỉ học. Cậu thiếu niên làm việc cho công ty của cha dượng với tư cách là người môi giới, tiếp thị sản phẩm. Đến tuổi 19, Giannini đã trở thành nhân tố quan trọng trong việc phát triển doanh nghiệp. Thành công ấy có được từ chính tính cách công bằng và liêm khiết của ông.

Giannini lập gia đình năm 1892 với con gái một người đồng hương. Ông đảm nhận công việc quản lý đầu tư bất động sản với bố vợ. Khi ấy, Giannini thu được từ những vụ đầu tư khoảng 250 USD mỗi tháng. Ngoài ra, ông vẫn được hưởng một nửa lợi nhuận từ công ty của bố dượng. Với ông, như thế là quá đủ khi ông không muốn giàu có và bị tiền bạc trói buộc. Do đó, Giannini bán lợi tức của mình cho những nhân viên làm việc trong công ty của gia đình và... nghỉ hưu ở tuổi 31.

Nếu tất cả chỉ dừng lại như thế, Giannini đã có một cuộc đời bình lặng và yên ả. Nhưng số phận đã không cho phép ông được nghỉ ngơi sớm. Một năm sau khi quyết định nghỉ hưu, bố vợ của Giannini qua đời. Không ai tiếp quản vị trí của ông này trong Ban quản trị (BQT) Columbus Savings and Loan Society, một ngân hàng nhỏ ở San Francisco. Sau khi suy nghĩ rất kĩ, Giannini đã quyết định ngồi vào vị trí ấy. Đó có thể là lựa chọn mang tính cách mạng, bởi nó thay đổi cả lịch sử ngành ngân hàng.

Trước thời điểm này, các ngân hàng ở Mỹ hoạt động chỉ nhằm mục đích hướng tới những người giàu có cũng như các doanh nghiệp lớn. Nói một cách khác, chúng được sinh ra để phục vụ cho giới thượng lưu. Cũng chính bởi tôn chỉ này, các hoạt động ngân hàng đều chưa được mở rộng cũng như chưa thể hiện được sức mạnh tài chính đối với các tầng lớp xã hội.

Là một người xuất thân từ lao động, đi lên từ những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, Giannini hiểu được xã hội cần gì, những người lao động cần gì. Giannini nhận thức được một lượng lớn dân nhập cư có nhu cầu gửi tiết kiệm và vay tiền, nhưng không ai muốn phục vụ. Ông nhận thấy tiềm năng của lĩnh vực ngân hàng nếu nhắm đến đối tượng là tầng lớp trung lưu cũng như những người nhập cư. Tuy vậy, khi đề xuất ý kiến này lên BQT của Columbus Savings and Loan Society, ông không nhận được ủng hộ từ các thành viên BQT. Thậm chí, họ coi đây là một nước cờ rủi ro, dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ.

Giannini là một người kiên định. Ông khẳng định những gì mình hướng đến là đúng. Trước sự phản đối từ BQT, ông quyết định ra đi và mở riêng cho mình một ngân hàng. Năm 1904, Giannini vay số tiền 150.000 USD từ 10 người bạn. Cùng với số tiền thừa kế mà người bố dượng để lại sau khi qua đời, ông đã mở được một ngân hàng nhỏ và lấy tên là “Bank of Italy” (Ngân hàng Ý). Đây là ngân hàng đầu tiên có dịch vụ cung cấp các khoản tiết kiệm và các khoản tài chính thương mại. Đồng thời, Ngân hàng Ý cũng cung cấp những khoản vay nhỏ, nhằm đáp ứng nhu cầu của những người nghèo. Giannini cho phép những người nông dân, người lao động được vay tiền. Bên cạnh đó, ông khuyến khích những người nhập cư gửi những khoản tiết kiệm ít ỏi của họ vào ngân hàng của mình. Bắt đầu từ con số 8,780 USD trong ngày đầu tiên, tiền gửi vào ngân hàng nhảy vọt lên đến 700,000 USD.

Với phương thức hoạt động mới này, Ngân hàng Ý của Giannini phát triển thịnh vượng và trở thành một hiện tượng trong lĩnh vực tài chính ở bang San Francisco. Tuy nhiên, để bước lên một tầm cao mới, để có được một bước đột phá về quy mô cũng như thương hiệu, Giannini vẫn phải cần thêm thời gian.

Thay đổi lịch sử ngành ngân hàng

Năm 1906, San Francisco gặp một trận động đất kinh hoàng kèm theo hỏa hoạn. Mọi thứ bị phá hủy, hầu hết các ngân hàng đều tuyên bố đóng cửa để đề phòng trộm cắp. Về phần mình, Giannini đã kịp chất lên xe một khối lượng vàng, tiền xu cũng như các khoản bảo hiểm trị giá tới 80.000 USD ngay thời điểm ngọn lửa thiêu rụi tòa nhà là trụ sở của Ngân hàng Ý. Với số tiền ấy, Giannini tuyên bố sẽ đứng lên từ “đống tro tàn”. Ông khẳng định đây là thời điểm tốt nhất Ngân hàng Ý chớp cơ hội và thử nghiệm một hình thức hoạt động ngân hàng mới.

Giannini cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và các cá nhân cần tiền để tái thiết việc kinh doanh và cuộc sống của họ mà không cần thế chấp gì khác ngoài một chữ ký. Ngân hàng Ý sẵn sàng cho những người dân có ít tài sản vay tín chấp để có vốn tái xây dựng nhà cửa và làm ăn. Ngân hàng này cũng chấp nhận những khoản tiền gửi nhỏ chỉ 1 USD, thu hút rất nhiều người nhập cư nghèo đến gửi tiền. Hành động hào phóng đó đã biến ông trở thành một người anh hùng của thành phố.

Sau một vài năm, Giannini thấy hầu hết những khoản cho vay tín chấp đều được hoàn trả đầy đủ. Điều này đã mở ra cho ông ý tưởng mới: “Gieo cấy” và “nhân bản” mô hình ngân hàng đã được kiểm nghiệm của mình.

Nhận thức được ngân hàng có sức mạnh lớn như thế nào khi có thể cải thiện cuộc sống của con người và coi đó là nhiệm vụ của đời mình, Giannini nghĩ ra ý tưởng xây dựng một hệ thống các ngân hàng chi nhánh ở các bang khác nhau tại Mỹ, có thể mang các nguồn tài chính tới những cộng đồng xa xôi.

Năm 1916, Giannini đã mở rộng, thành lập thêm một số chi nhánh ngân hàng khác bởi ông tin rằng đây là cách giữ vững sự ổn định cho các ngân hàng trong thời kỳ khủng hoảng đồng thời phát triển vốn huy động. Thực tế sau đó, Gianini sở hữu hơn 500 chi nhánh ngân hàng ở California.

Năm 1928, Giannini đã có cuộc gặp gỡ với Orra E. Monnette, Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc Ngân hàng Mỹ, Los Angeles, nhằm xúc tiến sự hợp tác về tài chính giữa hai ngân hàng. Sau cuộc gặp gỡ này, Ngân hàng Mỹ đã ra đời với chức Chủ tịch hội đồng quản trị thuộc về Giannini.

Ngân hàng của Gianini đã chi ngân sách để khuyến khích phát triển ngành phim hoạt hình và rượu ở California; năm 1937, ông cho Walt Disney vay để sản xuất phim Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Vào thời Đại khủng hoảng, ông bán trái phiếu để hỗ trợ cho việc xây dựng cầu Golden Gate. Còn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Gianini đã chi một khoản tiền lớn cho nhà công nghiệp Henry Kaiser và các doanh nghiệp của ông ta phục vụ cho chiến tranh. Năm 1945, Giannini đã cho tập đoàn Fiat vay nhằm tái thiết các nhà máy bị chiến tranh tàn phá.

Ngoài ra, Giannini còn tham gia sáng lập Tập đoàn Transamerica, hoạt động theo hình thức tổng công ty. Ban đầu, Transamerica là cổ đông kiểm soát Ngân hàng Mỹ. Việc này chấm dứt sau khi đạo luật Bank Holding Company được thông qua vào năm 1956.

Sau những thành tựu đã đạt được, Giannini nghỉ hưu lần thứ hai, nhưng ông vẫn không thể lui vào hậu trường khi Ngân hàng Mỹ gặp khó khăn trong thời gian Đại khủng hoảng. Ông quay lại công việc khôi phục và đưa nó lên vị trí ngân hàng lớn nhất nước. Giannini giữ chức Chủ tịch hội đồng quản trị của Ngân hàng Mỹ đến khi qua đời vào năm 1949. Đến thời điểm ông qua đời, Ngân hàng Mỹ có hơn 500 ngân hàng nhánh, với hơn 6 tỷ USD tiền gửi. 70 năm sau khi Giannini qua đời, Ngân hàng Mỹ vẫn đang giữ vai trò then chốt trong ngành ngân hàng tại Mỹ nói riêng và thế giới nói chung.

6 nhân vật tiên phong vĩ đại nhất lịch sử tài chính thế giới

Warren Buffett: Gần như không có thước đo nào có thể đo được những thành công của Buffett. Ông là nhà đầu tư thành công nhất thế giới, cổ đông lớn nhất, kiêm giám đốc hãng Berkshire Hathaway. Ở bảng xếp hạng mới nhất của Forbes, Buffett là người giàu thứ ba thế giới.

Amadeo Giannini là người có công cách mạng hóa ngành ngân hàng, người đầu tiên mang các nhà băng đến với tầng lớp trung lưu và lao động. Ông cũng là người thành lập Ngân hàng Mỹ, ngân hàng thương mại lớn nhất nước Mỹ.

Kenry Kravis là người đồng sáng lập Công ty đầu tư cổ phần tư nhân Kohlberg Kravis Roberts & Co (KKR). Công ty đã hoàn thành trên 400 tỷ USD giao dịch cổ phần tư nhân. KKR đi vào lịch sử tài chính thế giới với tư cách người tiên phong trong lĩnh vực sử dụng đòn bẩy để mua lại và sáp nhập doanh nghiệp.

J.P. Morgan được các học giả đánh giá là người đã định hình nền kinh tế hiện đại của Mỹ, cũng như các dịch vụ tài chính liên quan. Là chủ ngân hàng quyền lực nhất mọi thời đại, ngày nay, danh tiếng của Morgan vẫn được mọi người biết đến, dù ông đã mất hơn 100 năm trước.

Mayer Amschel Rothschild là cha đẻ của đế chế ngân hàng vĩ đại nhất lịch sử. Các học giả thậm chí còn cho rằng, đế chế của Rothschild sở hữu khối tài sản lớn nhất mọi thời đại. Ông là người định hình khái niệm tài chính cao cấp quốc tế.

Muhammad Yunus là người phổ biến khái niệm tín dụng vi mô. Ông cũng là người sáng lập Ngân hàng Grameen, một tổ chức tài chính vi mô, với mục đích cho vay vốn nhỏ đối với người nghèo không cần điều kiện bảo đảm.

Giannini
Tên đầy đủ:
Amadeo Pietro Giannini (6/5/1870 – 3/6/1949)
Nơi sinh:
San Jose, California, Mỹ
Bố và mẹ:
Luigi Giannini và Virginia Demartini
Các vị trí đảm nhiệm:
Người sáng lập Ngân hàng Ý, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Mỹ