​ NHỮNG ĐIỂM MỚI ĐÁNG LƯU Ý CỦA THÔNG TƯ 07 QUY ĐỊNH VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG

30/06/2015 01:00 SA

NGUYỄN HỮU ĐỨC – Vietcombank Đà Nẵng

Năm 2013, trên Tạp chí Ngân hàng số 13, người viết bài này có đăng bài “Bàn về một số bất cập của quy định về bảo lãnh ngân hàng” liên quan đến Thông tư số 28/2012/TT-NHNN ngày 03/10/2012 của Ngân hàng Nhà nước (Thông tư 28). Trong đó, người viết nêu ra 6 bất cập của Thông tư 28 cần phải được sửa đổi, bổ sung.

Mới đây Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/6/2015 quy định về bảo lãnh ngân hàng (Thông tư 07), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/8/2015 và thay thế cho Thông tư 28. Tín hiệu vui là Thông tư 07 có nhiều thay đổi tích cực và giải quyết hầu hết những bất cập của Thông tư 28 mà người viết, trong bài viết đã dẫn, đã chỉ ra và kiến nghị sửa đổi để phù hợp với tập quán quốc tế về bảo lãnh cũng như đáp ứng được yêu cầu thực tế trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng.

Trong bài viết này, trên cơ sở phân tích những quy định bất cập của Thông tư 28, người viết giới thiệu với bạn đọc những điểm mới đáng lưu ý của Thông tư 07 quy định về bảo lãnh ngân hàng.

Quy định về sử dụng ngôn ngữ trong giao dịch bảo lãnh

Về vấn đề ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản liên quan đến giao dịch bảo lãnh, Thông tư số 28 quy định các văn bản liên quan đến giao dịch bảo lãnh được lập bằng tiếng Việt. Trong trường hợp cần sử dụng tiếng nước ngoài, các bên liên quan được thỏa thuận sử dụng thêm tiếng nước ngoài trong các văn bản liên quan đến giao dịch bảo lãnh. Trường hợp có sự khác nhau về cách hiểu giữa văn bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì văn bản tiếng Việt là căn cứ pháp lý.

Quy định về việc sử dụng ngôn ngữ của Thông tư 28 là bất cập, không phù hợp với thực tế giao dịch bảo lãnh có yếu tố nước ngoài.

Giao dịch bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của ngân hàng nước ngoài là một ví dụ điển hình cho thấy sự bất cập của quy định về ngôn ngữ của Thông tư 28. Trong giao dịch này, ngân hàng nước ngoài không thể và không chấp nhận phát hành bảo lãnh đối ứng (bao gồm cả nội dung bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng) bằng tiếng Việt hay bằng song ngữ.

Tương tự, ngân hàng nước ngoài, vì nhiều lý do khác nhau, cũng sẽ không chấp nhận bảo lãnh đối ứng bằng tiếng Việt do tổ chức tín dụng trong nước phát hành, cũng như sẽ không chấp nhận phát hành bảo lãnh bằng tiếng Việt hay bằng song ngữ tiếng Việt và tiếng nước ngoài theo yêu cầu của tổ chức tín dụng trong nước.

Đối với giao dịch bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là tổ chức hay cá nhân ở nước ngoài, việc phát hành bảo lãnh ngân hàng bằng tiếng Việt hay bằng song ngữ với tiếng Việt được sử dụng làm căn cứ pháp lý chắc chắn cũng sẽ không được bên nhận bảo lãnh chấp nhận.

Thực tế cho thấy các giao dịch mua bán ngoại thương thanh toán bằng hình thức chuyển tiền bằng điện, nhờ thu chứng từ hay thư tín dụng đều sử dụng ngôn ngữ tiếng nước ngoài nhưng khi có tranh chấp xảy ra và tranh chấp nếu được đưa ra tòa án Việt Nam xét xử, tòa án Việt Nam vẫn thụ lý xét xử, chứ không từ chối vì lý do ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản giao dịch là bằng tiếng nước ngoài.

Trong bài viết đã dẫn, người viết đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước sửa đổi Điều 7 Thông tư 28 về việc sử dụng ngôn ngữ trong các giao dịch bảo lãnh. Theo đó, các văn bản liên quan đến giao dịch bảo lãnh mà các bên tham gia giao dịch gồm các tổ chức và cá nhân hoạt động theo luật pháp Việt Nam được lập bằng tiếng Việt hoặc bằng song ngữ tiếng Việt và tiếng nước ngoài nếu cần thiết; trường hợp các văn bản được lập bằng song ngữ có sự khác nhau về cách hiểu giữa văn bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì văn bản tiếng Việt là căn cứ pháp lý. Đối với giao dịch bảo lãnh có yếu tố nước ngoài, bao gồm giao dịch bảo lãnh đối ứng hoặc giao dịch bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là tổ chức hoặc người nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản liên quan có thể bằng một thứ tiếng Anh hoặc bằng một tiếng nước ngoài phổ biến được các bên chấp nhận.

Phản ảnh của người viết cũng như của công đồng thực hành bảo lãnh ở các ngân hàng về sự bất cập liên quan đến quy định về việc sử dụng ngôn ngữ trong giao dịch bảo lãnh của Thông tư 28 đã được Thông tư 07 khắc phục. Theo đó,  Điều 7 Thông tư 07 quy định lại như sau:

Các văn bản sử dụng trong giao dịch bảo lãnh bao gồm thỏa thuận cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh phải được lập bằng tiếng Việt. Trường hợp bảo lãnh có yếu tố nước ngoài, các bên liên quan được thỏa thuận sử dụng tiếng nước ngoài. Trường hợp sử dụng tiếng nước ngoài, các văn bản phải được dịch sang tiếng Việt (có xác nhận của người đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) đính kèm bản tiếng nước ngoài khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.

Có thể nói quy định mới về sử dụng ngôn ngữ tại Điều 7 Thông tư 07 đáp ứng được yêu cầu thực tế trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng đồng thời phù hợp với tập quán quốc tế.

Thỏa thuận cấp bảo lãnh

Điều 13 Thông tư 28 quy định để thực hiện bảo lãnh, bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và các bên liên quan (nếu có) phải thỏa thuận ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh.

Theo người viết, quy định các bên tham gia giao dịch bảo lãnh phải thỏa thuận ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh với đầy đủ các nội dung trên đây chỉ phù hợp với các giao dịch bảo lãnh mà các bên tham gia giao dịch bảo lãnh là tổ chức hoặc cá nhân trong nước.

Đối với giao dịch phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức tín dụng trong nước, bên bảo lãnh đối ứng thường chỉ phát hành thư bảo lãnh đối ứng đơn giản bằng điện Swift MT 760 gồm (i) nội dung bảo lãnh mà bên bảo lãnh được chỉ thị phát hành; và (ii) cam kết hoàn trả của bên bảo lãnh đối ứng. Trong trường hợp này, bảo lãnh đối ứng phát hành bằng điện Swift có thể được xem là thỏa thuận hợp đồng cấp bảo lãnh giữa bên bảo lãnh đối ứng và bên bảo lãnh, thường không bao gồm quá nhiều nội dung chi tiết như theo quy định tại Thông tư 28 và tất nhiên cũng không được ký tên và đóng dấu bởi các bên liên quan.

Vì vậy, người viết đề nghị Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung quy định liên quan đến hợp đồng cấp bảo lãnh trong trường hợp tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng được phát hành bằng điện Swift. Theo đó, cho phép hợp đồng cấp bảo lãnh có thể được thể hiện bằng hình thức điện Swift thích hợp, ví dụ: MT 760.

Thông tư 07 sử dụng cụm từ “Thỏa thuận cấp bảo lãnh” thay cho cụm từ “Hợp đồng bảo lãnh” của Thông tư 28 với nội dung đã được sửa đổi như đề xuất. Theo đó, khoản 1 Điều 14 của Thông tư 07 quy định như sau:

Để thực hiện bảo lãnh, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng ký thỏa thuận cấp bảo lãnh. Trường hợp phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng thì bên bảo lãnh không bắt buộc phải ký thỏa thuận cấp bảo lãnh với bên bảo lãnh đối ứng.

Điều kiện đối với bên được bảo lãnh

Về điều kiện đối với bên được bảo lãnh, Điều 10 Thông tư 28 quy định bên bảo lãnh phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; Có khả năng thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ cam kết với các bên liên quan trong quan hệ bảo lãnh; và nghĩa vụ bảo lãnh và giao dịch phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là hợp pháp.

Quy định trên chỉ có thể áp dụng khi bên được bảo lãnh là tổ chức hoặc cá nhân có quan hệ tín dụng trực tiếp với tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh. Trường hợp bảo lãnh được phát hành trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của tổ chức tín dụng khác trong nước hay nước ngoài, tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh chỉ xem xét điều kiện đối với bên phát hành bảo lãnh đối ứng, chứ không trực tiếp thẩm định bên được bảo lãnh để xác định bên được bảo lãnh có đáp ứng được các điều kiện được quy định tại Điều 10 hay không. Trong trường hợp này, trách nhiệm thẩm định bên được bảo lãnh thuộc về bên phát hành bảo lãnh đối ứng.

Thông tư 07  đã  sửa đổi quy định lại như sau:

Điều 10: Điều kiện đối với khách hàng

Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài xem xét, quyết định cấp bảo lãnh, bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh cho khách hàng khi khách hàng có đủ các điều kiện sau đây:

1. Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.

2. Nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ tài chính hợp pháp.

3. Được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp bảo lãnh đánh giá có khả năng hoàn trả lại số tiền mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải trả thay khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Cũng cần lưu ý thêm rằng Điều 10 Thông tư 07 sử dụng là tiêu đề “Điều kiện đối với khách hàng” thay cho “Điều kiện đối với bên được bảo lãnh” của Thông tư 28. Theo giải thích tại Điều 3 Thông tư 07, từ “khách hàng” là tổ chức (bao gồm cả tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức tín dụng ở nước ngoài) và cá nhân. Việc bổ sung này giúp xác định rõ khách hàng là bên nào trong quan hệ bảo lãnh, từ đó làm cơ sở cho việc xác định số dư bảo lãnh; xem xét điều kiện cấp bảo lãnh.  

Thẩm quyền ký thỏa thuận cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh

Về thẩm quyền ký kết hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh, Thông tư 28 quy định hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh của bên bảo lãnh phải được ký bởi 3 người gồm (i) Người đại diện theo pháp luật; (ii) Người quản lý rủi ro hoạt động bảo lãnh; và (iii) Người thẩm định khoản bảo lãnh.

Trong bài viết đã dẫn, người viết cho rằng quy định chặt chẽ nêu trên phát sinh từ sau những tranh chấp liên quan đến các bảo lãnh ngân hàng được cho là ký vượt thẩm quyền của người ký. Quy định trên chỉ nên áp dụng đối với hợp đồng cấp bảo lãnh, chứ không nên áp dụng đối với cam kết bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh được ký bởi một người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền bảo đảm đầy đủ tính pháp lý. Quy định cam kết bảo lãnh phải được ký bởi 3 người là khiên cưỡng, mang tính chữa cháy sau những vụ tranh chấp liên quan đến bảo lãnh giả mạo, bảo lãnh được cho là ký vượt thẩm quyền của người ký.

Một ví dụ rõ ràng nhất cho thấy quy định bảo lãnh phải được ký bởi 3 người theo quy định là không cần thiết, đó là trường hợp phát hành bảo lãnh bằng điện Swift. Bảo lãnh phát hành bằng điện Swift không có bất kỳ chữ ký nào. Khi nhận được bảo lãnh ngân hàng bằng điện Swift, ngân hàng kiểm tra tính xác thực của bảo lãnh và thông báo cho bên nhận bảo lãnh. Rõ ràng ngân hàng phát hành bảo lãnh không thể viện lý do rằng bảo lãnh đó là giả mạo hay được duyệt bởi người không có đủ thẩm quyền để từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu chứng từ xuất trình phù hợp. Trong trường hợp này, việc ký duyệt vượt thẩm quyền trở thành câu chuyện nội bộ của ngân hàng phát hành bảo lãnh.

Về vấn đề này, Thông tư 07 tại Điều 16 đã quy định lại như sau:

1. Thỏa thuận cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh phải được ký bởi người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

2. Việc ủy quyền ký thỏa thuận cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh phải được lập bằng văn bản và phù hợp với quy định của pháp luật.

Như vậy, Thông tư 07 đã bỏ quy định cam kết bảo lãnh phải hội đủ 3 chữ ký quy định tại Điều 15 Thông tư 28. Cam kết bảo lãnh này chỉ cần được ký bởi người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đủ bảo đảm bảo đảm tính pháp lý.

Theo ý kiến của người viết, sẽ đầy đủ hơn nếu Thông tư 07 bổ sung thêm quy định về cam kết phát hành bằng điện Swift (thường sử dụng MT 760).

Thời hạn kiểm tra chứng từ và thông báo từ chối

Về thời hạn thanh toán và thông báo từ chối, Thông tư 28 quy định chậm nhất sau 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày bên nhận bảo lãnh xuất trình đầy đủ bộ hồ sơ đề nghị thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đầy đủ, đúng nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối.

Quy định trên có phần khác với Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu - Ấn bản số 758 của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC Uniform Rules for Demand Guarantees - URDG 758).

URDG 758 chốt thời hạn kiểm tra chứng từ, trong khi Thông tư 28 chốt thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thông tư 28 không quy định rõ về thời hạn ra thông báo từ chối.

Trong bài viết đã dẫn, người viết đề nghị Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, quy định bổ sung về thời hạn kiểm tra chứng từ và thông báo từ chối như URDG 758. Theo đó, quy định nếu bên bảo lãnh từ chối yêu cầu đòi tiền thì phải gửi một thông báo duy nhất nêu rõ:

(i) bên bảo lãnh từ chối yêu cầu đòi tiền; và 

(ii) từng bất hợp lệ mà căn cứ vào đó bên bảo lãnh từ chối.

Thông báo từ chối phải được gửi đi không được chậm trễ nhưng không được trễ hơn kết thúc ngày làm việc thứ năm kể từ ngày xuất trình. Nếu bên bảo lãnh không gửi thông báo như vậy trong thời hạn quy định thì sẽ mất quyền tuyên bố rằng yêu cầu đòi tiền và các chứng từ liên quan không cấu thành một sự xuất trình hợp lệ.

Thông tư 07 đã bổ sung thêm nội dung này tại khoản 4 Điều 21 (Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như sau):

Trường hợp từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, chậm nhất sau 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên từ chối phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối.

Tuy nhiên, theo người viết, sẽ rõ ràng hơn nếu như Thông tư 07 quy định thêm rằng nếu bên bảo lãnh không gửi thông báo từ chối trong thời hạn quy định thì sẽ  mất quyền tuyên bố rằng yêu cầu đòi tiền và các chứng từ liên quan không cấu thành một sự xuất trình hợp lệ.

Một số sửa đổi, bổ sung khác

Bên cạnh những sửa đổi, bổ sung để khắc phục những bất cập của Thông tư 28 như phân tích trên đây, Thông tư 07 cũng có nhiều thay đổi, bổ sung khác nhằm mục đích để rõ ràng hơn cũng như phù hợp với yêu cầu thực tế về bảo lãnh ngân hàng.

Có thể nêu ra đây một vài sửa đổi, bổ sung đáng lưu ý sau đây:

Về giải thích từ ngữ, Thông tư 07 bổ sung thêm các khái niệm “Bên bảo lãnh đối ứng”, “Bên xác nhận bảo lãnh” để quy định cụ thể Bên bảo lãnh đối ứng, Bên xác nhận bảo lãnh bao gồm cả tổ chức tín dụng ở nước ngoài. Thông tư 07 cũng bổ sung khái niệm “Khách hàng” như giải thích ở phần trên là để xác định khách hàng là bên nào trong quan hệ bảo lãnh, từ đó làm cơ sở cho việc tính số dư phát hành bảo lãnh, bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh và cơ sở cho việc xem xét điều kiện đối với khách hàng được cấp bảo lãnh.

Thông tư 07 cho phép Bên nhận bảo lãnh có quyền chuyển nhượng quyền thụ hưởng cam kết bảo lãnh. Khi chuyển nhượng bảo lãnh không cần phải có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.

Về bảo lãnh đối với khách hàng là người không cư trú bằng ngoại tệ, Thông tư 07 quy định bổ sung (tại khoản 4 Điều 11) không cho phép Chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh bằng ngoại tệ đối với khách hàng tổ chức là người không cư trú ở nước ngoài, trừ các trường hợp:

 

(a) Bảo lãnh cho bên được bảo lãnh tại Việt Nam trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của tổ chức tín dụng ở nước ngoài;

(b) Xác nhận bảo lãnh cho nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng ở nước ngoài đối với bên được bảo lãnh tại Việt Nam.

Đặc biệt, Thông tư 07 bổ sung quy định mới về bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai. Theo đó, Thông tư 07 bổ sung Điều 12 như sau:

1. Khi thực hiện bảo lãnh cho chủ đầu tư dự án bất động sản để bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai theo quy định tại Điều 56 Luật kinh doanh bất động sản, ngân hàng thương mại phải tuân thủ các quy định sau đây:

a) Nhà ở hình thành trong tương lai có đủ điều kiện được bán, cho thuê mua theo quy định tại Điều 55 Luật kinh doanh bất động sản;

b) Trong hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở ký kết giữa chủ đầu tư và bên mua, bên thuê mua có quy định nghĩa vụ của chủ đầu tư phải hoàn lại tiền cho bên mua, bên thuê mua khi chủ đầu tư vi phạm nghĩa vụ bàn giao nhà ở theo tiến độ đã cam kết với bên mua, bên thuê mua;

c) Ngân hàng thương mại đánh giá chủ đầu tư có khả năng thực hiện đúng tiến độ dự án và sử dụng số tiền ứng trước, các khoản tiền khác của bên mua, bên thuê mua đã trả cho chủ đầu tư đúng mục đích;

d) Ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc tại văn bản sửa đổi, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động;

đ) Thỏa thuận cấp bảo lãnh với chủ đầu tư, cam kết bảo lãnh phải phù hợp với quy định tại khoản 2, 3 Điều 56 Luật kinh doanh bất động sản 2014;

e) Cam kết bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải có hiệu lực đến thời điểm ít nhất sau 30 ngày kể từ ngày bàn giao nhà cho bên mua, bên thuê mua nhà ở theo thỏa thuận của chủ đầu tư với bên mua, bên thuê mua nhà ở.

2. Hợp đồng bảo lãnh theo quy định tại Điều 56 Luật kinh doanh bất động sản được lập dưới một trong các hình thức cam kết bảo lãnh quy định tại khoản 12 Điều 3 và Điều 15 Thông tư này.

3. Ngoài các quy định tại khoản 1, 2 Điều này, các nội dung khác về việc bảo lãnh trong bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải thực hiện theo quy định tại Thông tư này.

Thông tư 07 bổ sung Điều 12 quy định bảo lãnh cho chủ đầu tư dự án bất động sản để bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai, so với Thông tư 28, là điểm mới phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật kinh doanh bất động sản.

KẾT LUẬN

Như đã nêu ở phần mở đầu, Tín hiệu vui là Thông tư 07 có nhiều thay đổi tích cực và giải quyết hầu hết những bất cập của Thông tư 28 mà người viết, trong bài viết đã dẫn, đã chỉ ra và kiến nghị sửa đổi để phù hợp với tập quán quốc tế về bảo lãnh cũng như đáp ứng được yêu cầu thực tế trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng. Hy vọng rằng Thông tư 07 sẽ được các cộng đồng những người làm công tác bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đón nhận./.

----------

Tài liệu tham khảo:

- Ngân hàng Nhà nước: Thông tư số 28/2012/TT-NHNN ngày 03/10/2012 quy định về bảo lãnh ngân hàng

- Ngân hàng Nhà nước: Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/6/2015 quy định về bảo lãnh ngân hàng

- Nguyễn Hữu Đức: “Bàn về một số bất cập của quy định về bảo lãnh ngân hàng”. Tạp chí Ngân hàng số 13 (2013)

- ICC Uniform Rules for Demand Guarantees ICC Publication 758 (URDG 758)

------------

 

 

 

 

Tin đã đăng


​Trang thông tin điện tử Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Vietcombank 
Chịu trách nhiệm nội dung: ThS. Nguyễn Thanh Tùng - Thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc
Liên hệ: Ban biên tập - Phòng Quan hệ Công chúng - Tòa nhà VCB Tower - 198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội.



Điện thoại: 84-24-39343137

Fax: 84-24-39365402

Email: vcbnews.ho@vietcombank.com.vn​